SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn Lớp 8 ở trường PTDT Nội trú THCS và THPT

docx 18 trang sklop8 09/06/2024 590
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn Lớp 8 ở trường PTDT Nội trú THCS và THPT", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn Lớp 8 ở trường PTDT Nội trú THCS và THPT

SKKN Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn Lớp 8 ở trường PTDT Nội trú THCS và THPT
 CỘNG HOÀ XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM
 Độc lập - Tự do - Hạnh phúc
 ĐƠN ĐỀ NGHỊ CÔNG NHẬN SÁNG KIẾN
 Kính gửi: Hội đồng TĐ- KT ngành Giáo dục – Đào tạo tỉnh Sơn La.
 1. Tôi ghi tên dưới đây
 Tỷ lệ % 
 Chức 
 đóng 
 Nơi công vụ/ Trình 
 TT Họ và tên Ngày sinh góp vào 
 tác chức độ
 sáng 
 danh
 kiến 
 Cử 
 Giáo nhân 
 1 100%
 viên khoa 
 học
 2. Là tác giả đề nghị xét công nhận sáng kiến:
 " Ứng dụng công nghệ thông tin trong dạy học môn Ngữ văn lớp 8 ở trường 
 PTDT Nội Trú THCS và THPT .".
 3. Chủ đầu tư tạo ra sáng kiến: 
 - . - Trường PTDT Nội trú THCS và THPT huyện .
 4. Lĩnh vực áp dụng sáng kiến: Giáo dục
 5. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu hoặc áp dụng thử: 
 - Năm học 2020 - 2021.
 6. Mô tả bản chất của sáng kiến: 
 6.1. Tình trạng của giải pháp đã biết:
 a. Thuận lợi
 - Theo Nghị Quyết số: 29-NQ/TW của Ban chấp hành Trung ương ngày 4 tháng 
11 năm 2013 về “Đổi mới căn bản, toàn diện Giáo dục và Đào tạo” một trong 
những nội dung quan trọng là tăng cường ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng 
dạy và học tập. 
 - Ban giám hiệu nhà trường cùng đội ngũ giáo viên xác định ứng dụng công nghệ 
thông tin trong nhà trường là phương tiện dạy học hữu ích nhằm nâng cao chất lượng 
giáo dục của nhà trường. 3
 - Nhiều giáo viên trong trường hào hứng với việc ứng dụng công nghệ thông tin vào 
giảng dạy. Nhưng hiệu quả chưa cao, chưa gây hứng thú cho học sinh. 
 - Với quan điểm của bản thân tôi là ứng dụng công nghệ thông tin vào giảng dạy 
không chỉ dừng lại ở việc khai thác, sử dụng thiết bị có sẵn trong nhà trường mà người 
giáo viên cần sáng tạo kết hợp các thiết bị khác nhằm tạo nên thiết bị dạy học phong 
phú hơn giúp giải quyết những khó khăn trên. 
 Kết quả khảo sát chất lượng đầu năm học 2020 – 2021, ở học sinh khối lớp 8 như 
sau:
 Kết quả khảo sát học sinh khối 8 đầu năm:
 Tổng số Hứng thú Không hứng thú
 học sinh HS % TS %
 68 38 55,9 30 44,1
 6.2. Nội dung của giải pháp đề nghị công nhận sáng kiến là:
 a) Mục đích của giải pháp:
 - Chia sẻ với đồng nghiệp một số ứng dụng công nghệ thông tin như :(mạng xã 
hội: Zalo, Facebook), các thiết bị như camera rời, khi kết hợp với nhau có thể sử 
dụng tích cực trong hoạt động dạy và học: 
 + Bước1: Tôi dùng mạng xã hội - Zalo trong việc hướng dẫn cũng như kiểm 
tra việc học tại nhà của học sinh một cách có hiệu quả hơn. Thông qua đó có thể kiểm 
tra, đánh giá năng lực tự học và mức độ siêng năng chăm chỉ của học sinh không chỉ 
trong các tiết học mà còn kiểm tra vào nhiều thời điểm thông qua hình thức kiểm tra 
“trực tuyến” nhằm hạn chế bớt việc học sinh sử dụng mạng xã hội vào những việc 
không có ích, mất thời gian của học sinh.
 + Bước 2: Dùng camera rời, máy tính kết hợp với máy chiếu để truyền hình 
ảnh trực tiếp trong quá trình dạy học. Cách làm trên có chức năng gần giống với máy 
chiếu vật thể giúp tôi dễ dàng chiếu phiếu học tập các em đã làm ở nhà, những bài tập 
các em làm trên lớp. Thông qua đó nhận xét, đánh giá kết quả học tập của các em mà 
không cần dùng bảng phụ (thường dùng là giâý A4- cồng kềnh, tốn kém, khó viết), 
bảng nhóm mà HS cả lớp vẫn dễ dàng quan sát sản phẩm của nhóm bạn. 
 + Qua giải pháp tôi mong muốn các đồng nghiệp chia sẻ cùng tôi những kinh 
nghiệm giảng dạy, trao đổi bàn luận để tìm ra biện pháp thiết thực, khả thi nhất, để đáp 
ứng được yêu cầu đổi mới giáo dục hiện nay và nâng cao chất lượng giáo dục bộ môn 
ngữ văn, giải quyết triệt để tình trạng học sinh không có hứng thú với môn học, lười tư 
duy, động não... Mục đích cuối cùng là tăng sự tương tác giữa giáo viên và học sinh, 
giữa học sinh với nhau nhằm khơi dậy sự hứng thú học tập môn ngữ văn cho học sinh. 
Thông qua đó giáo dục những kĩ năng cơ bản như tự học, tự nghiên cứu, trong hoạt 
động nhóm có biết phân công các nội dung để tìm ra điểm yếu, điểm mạnh của cá nhân. 5
 Làm các bài tập ở nhà sau khi đã học xong (thường thì khái quát văn bản bằng 
sơ đồ tư duy, lập hồ sơ người nổi tiếng, hồ sơ tác phẩm nổi tiếng, viết đoạn văn với chủ 
đề cho trước, hoàn thiện các bài tập trên lớp chưa kịp giải quyết xong.)
 Yêu cầu các em tìm hiểu một vấn đề nào đó liên quan đến bài học (tìm hiểu 
về tác phẩm, tóm tắt tắt tác phẩm, sân khấu hoá các văn bản, các phiếu bài tập để chuẩn 
bị nội dung bài mới.). 
 Như vậy trong qúa trình chuẩn bị bài cũ, mới đều có sự tương tác giữa giáo 
viên với học sinh, học sinh với học sinh. Thông qua hoạt động đó tôi có thể tư vấn 
hay hướng dẫn các em giải quyết các vấn đề mà các em đang vướng mắc, động viên 
chia sẻ với các em trong quá trình học tập, thông qua đó tôi nắm bắt được tâm tư, tình 
cảm, nguyện vọng của học sinh để kịp thời điều chỉnh những suy nghĩ lệch lạc trong 
học tập của các em.
 Giao bài cho học sinh Học sinh nộp bài
 Tương tác giao lưu của học 
 sinh “Chúc mừng sinh nhật”
 Zalo còn là nơi lưu giữ những sản phẩm tốt của học sinh 7
 Trải nghiệm thuyết minh về đồ chơi Vở soạn của học sinh
 Giải pháp 2: Dùng camera rời, ứng dụng mạng xã hội (zalo), máy tính kết hợp 
 với máy chiếu nhằm tăng tính tương tác trong dạy học môn Ngữ văn.
 - Điểm mới: 
 + Phiếu học tập làm ở nhà
 + Bài làm học sinh thực hiện trên lớp có thể đưa trực tiếp lên máy chiếu trong tiết 
học tiết học để làm đồ dùng trực quan. 
 + Với cách làm này có thể vừa chiếu bài tập vừa chữa trực tiếp để học sinh quan 
sát. Các em có đồ dùng trực quan do mình làm ra thông qua đó các em sẽ nhận ra điểm 
mạnh điểm yếu của bản thân để tự rút ra phương pháp học tập đúng đắn và tích cực 
nhất. 
 - Các bước thực hiện giải pháp
 * Chuẩn bị:
 + 01đế để camera, có thể xoay 180 độ.
 + Camera rời (chiếu rõ hình ảnh).
 + Máy tính cá nhân (PC).
 + Máy chiếu. 9
 Bước 1: Chọn bài để dưới Bước 2: Học sinh lên trình bày, 
camera,chiếu lên máy chiếu thông qua lắng nghe các bạn nhận xét, bổ sung, 
 máy tính . phản biện. 
 Bước 3: Giáo viên nhận xét, bổ 
 sung trực tiếp lên phiếu. học sinh bổ 
 sung phần thiếu vào vở. 11
 Khi tìm hiểu mục 1. Chiến tranh và người bản xứ. Kiến thức ở đây là cần học sinh 
tìm nhanh chi tiết số phận của người bản xứ trước và sau chiến tranh cũng như cách 
các quan cai trị gọi người bản xứ. Giáo viên chỉ cần đưa phiếu học tập, giao nhiệm vụ 
cho học sinh chú ý vào phần 1 của văn bản. Tìm chi tiết (giáo viên chọn phương án 
nhóm 4 và gợi ý cho mỗi học sinh tìm một nội dung rồi thống nhất thành sản phẩm 
nhóm). Sản phẩm của các em sẽ là những tờ giấy nhớ ghép lại. Giáo viên chọn sản 
phẩm nhóm nào nhanh nhất, tốt nhất để các em nhận xét, đánh giá, giáo viên đưa câu 
hỏi vận dụng để chốt được nghệ thuật, nội dung qua hoạt động đó.
 H 1 H 2
 Học sinh dán lên phiếu Giáo viên chữa trực tiếp 
 học tập trên phiếu
 Vận dụng: Trò chơi điền bảng (hoạt động nhóm):
 * Cách thường làm: Trò chơi này dùng trong những giờ ôn tập. Thay bằng việc 
cho học sinh lập bảng thống kê kiến thức bình thường (tờ phiếu A0), ta có thể làm 
thành những thẻ (tờ phiếu) kiến thức, sau đó phát cho nhóm và yêu cầu các nhóm học 
sinh dùng thẻ này để điền vào ô trống trên bảng thống kê. Mục tiêu cuối cùng là giúp 
học sinh thống kê được kiến thức. Cách này nhẹ nhàng mà huy động được sự tham gia 
của cả lớp. Với cách làm này giáo viên chuẩn bị rất vất vả, tốn thời gian, sản phẩm 
dùng xong thường bị vứt vào 1 góc.
 * Điểm mới: Giáo viên vẫn chuẩn bị những nội dung trên nhưng lập bảng thống 
kê kiến thức bình thường (tờ phiếu A4), những thẻ (tờ phiếu nhỏ) kiến thức. Các em 
ghép thẻ, chia lớp thành nhiều nhóm nhỏ, nhóm nào nhanh giáo viên chụp lên máy 
chiếu, các nhóm khác bổ sung, hoàn thiện sản phẩm của nhóm mình. Đặc biệt khi học 
xong các em ghép phiếu vào vở ghi để làm tài liệu học tâp.
 * Ví dụ: Ngữ văn 8 –tập 1 – Tiết 42:
 ÔN TẬP TRUYỆN KÝ VIỆT NAM 13
 Nhóm 3 Nhóm 6 Nhóm 8
 Vận dụng trò chơi: Giải ô chữ hình thức thứ nhất (chủ yếu là hoạt động cá 
nhân):
 * Đặc điểm: Trò chơi này khá quen thuộc và đã được áp dụng nhiều nhưng nó 
lại được sự đón nhận rất nhiệt tình và hứng khởi của các em học sinh. Chính vì thế, nó 
mang lại hiệu quả cũng rất cao. Trò chơi này thích hợp với một giờ văn học hoặc tiếng 
Việt. Có thể áp dụng trò chơi này để vào bài hoặc dùng ôn tập ở cuối bài.
 *Chuẩn bị: Giáo viên hoặc học sinh soạn ra một bảng ô chữ cùng các câu hỏi 
đi kèm tương ứng với kiến thức của các ô hàng ngang cần thực hiện. Từ gợi ý của các 
ô hàng ngang, học sinh dần dần tìm ra nội dung của ô hàng dọc – Đây là ô chính mà 
nội dung của nó có tầm quan trọng đối với bài học mà học sinh cần nắm chắc và ghi 
nhớ được. Hoặc GV có thể tô màu một số chữ trong từ hàng ngang để học sinh tìm từ 
khóa bằng cách ghép các chữ tô màu đã tìm được. Bảng ô chữ này có thể chuẩn bị bằng 
cách áp dụng công nghệ thông tin để tạo ra các sile trò chơi trên Powerpoint.
 * Ví dụ 1: Ngữ văn 8 – tập một: Tiết 33+34: CHIẾC LÁ CUỐI CÙNG
 * Cách thường làm :
 - Dạy xong bài này, giáo viên cho học sinh tham gia vào trò chơi. Giáo viên có 
thể chia ra nhóm hoặc cho HS chơi cá nhân thường dùng là hoạt động cá nhân.
 - Yêu cầu của trò chơi: Học sinh nắm được những nội dung cơ bản về tác giả O 
Henri và tác phẩm “Chiếc lá cuối cùng” cũng như các nhân vật trong truyện. Đặc biệt, 
khi kết thúc trò chơi học sinh phải nắm được một trong những phẩm chất cần thiết của 
con người trong mọi hoàn cảnh là “NGHỊ LỰC”
 - Giáo viên dùng máy chiếu cho HS (cá nhân) lựa chọn câu hỏi để tìm từ hàng 
ngang. Nếu HS (cá nhân) nào không trả lời được theo thời gian quy định thì phải 
nhường lượt cho HS khác tiếp tục trò chơi.
 - Cụ thể: 
Câu hỏi và đáp án từ hàng ngang: 15
 + Đối với học sinh: Chuẩn bị bài đầy đủ, nắm vững nội dung bài học, bổ sung các 
câu trả lời của bạn, thích được phát biểu ý kiến của mình về vấn đề của nhóm mình 
đang làm và của cả nhóm bạn. Không nản, kiên trì làm cho xong bài tập (vì có phần thi 
đua giữa các nhóm). Khi trình bày bài viết của nhóm, học sinh thường học theo cách 
nói của giáo viên hay của những người dẫn chương trình trên truyền hình mà các em 
xem, từ đó các em mạnh dạn, năng động hơn.
 *Hạn chế của giải pháp:
 Với giải pháp trên có thể còn một số nhỏ học sinh có thể chép bài tập của bạn để gửi 
cho giáo viên. 
 Một một số em học sinh không có điều kiện kết nối Internet sẽ gặp khó khăn trong 
việc tham gia các hoạt động của giáo viên yêu cầu.
 Giáo viên tốn nhiều thời gian để có thể đưa ra phiếu bài tập phù hợp với kiểu bài, 
phù hợp đặc thù của phân môn. Đặc biệt giáo viên phải nghiên cứu kĩ, làm chủ kiến 
thức thì tiết học mới thành công.
 Để khắc phục những hạn chế trên chúng tôi sẽ tập trung kiểm tra những trường hợp 
đó trong tiết dạy đồng thời kiểm chứng những trường hợp đối phó bằng cách kiểm tra 
trực tiếp. 
 Giải pháp 2:
 *Ưu điểm:
 Tất cả các vật dụng liên quan được lắp ráp linh hoạt, cơ động, giá thành rẻ so với 
camera vật thể trên thị trường, các ứng dụng có sẵn .... nhưng lợi ích mang lại rất lớn. 
Chức năng chiếu vật thể: giúp các em quan sát, nhận xét, đối chiếu, đánh giá sản phẩm 
của mình. Giáo viên chữa luôn vào phiếu của học sinh, giáo viên không phải chốt kiến 
thức lên bảng cho học sinh. 
 Học sinh không mất thời gian treo, cất bảng phụ. Giáo viên dùng để chữa bài kiểm 
tra cho các em tuyên dương những bài làm tốt để khuyến khích các em thông qua đó 
những bạn làm chưa tốt có thể học hỏi. Chọn những bài có lỗi sai cơ bản để các em sửa 
và tránh được lỗi sai.
 *Hạn chế:
 Do sử dụng công nghệ thông tin nếu mất điện là không thực hiện được. Trong quá 
trình thực hiện giáo viên cần linh hoạt điều chỉnh khoảng cách và ánh sáng. Lựa chọn 
những sản phẩm phù hợp với mục tiêu của tiết dạy. Lựa chọn đối tượng học sinh để 
trình bày.
 Để khắc phục những hạn chế chủ quan tôi thường xuyên áp dụng ở các kiểu bài 
khác nhau để xử lí những hạn chế trong khâu thao tác.
 6.3. Khả năng áp dụng của giải pháp:

File đính kèm:

  • docxskkn_ung_dung_cong_nghe_thong_tin_trong_day_hoc_mon_ngu_van.docx