SKKN Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS Thượng Thanh thông qua việc giáo dục học sinh đặc biệt
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS Thượng Thanh thông qua việc giáo dục học sinh đặc biệt", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Nâng cao vai trò của giáo viên chủ nhiệm ở trường THCS Thượng Thanh thông qua việc giáo dục học sinh đặc biệt
MỤC LỤC Nội dung Trang A. ĐẶT VẤN ĐỀ 2 I. Cơ sở lí luận 3 II. Cơ sở thực tiễn 5 III. Đối tượng và nhiệm vụ nghiên cứu 7 IV. Phương pháp nghiên cứu 7 V. Phạm vi nghiên cứu 8 B. GIẢI QUYẾT VẤN ĐỀ 8 I. Vai trò của giáo viên chủ nhiệm 8 II. Những hiểu biết chung về học sinh đặc biệt 10 III. Lí luận chung về nguyên tắc và phương pháp giáo dục 14 IV. Biện pháp giáo dục học sinh đặc biệt 39 V. Kết quả kiểm nghiệm đề tài 52 C. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 55 I. Kết luận 55 II. Kiến nghị 56 TÀI LIỆU THAM KHẢO 58 1 phân loại được đối tượng HS trong lớp chủ nhiệm. Và thực tế hiện nay trong một lớp học có rất nhiều đối tượng học sinh nhưng ở phạm vi đề tài này tôi sẽ đi sâu vào đối tượng học sinh đặc biệt (HSĐB) – một bộ phận không nhỏ trong các trường THCS nói chung và trường THCS Thượng Thanh nói riêng. Thuật ngữ HSĐB ở đây không phải chỉ hiểu bó hẹp các em là học sinh cá biệt (HSCB), mà bao gồm các em có những năng khiếu, sở trường đặc biệt, có hoàn cảnh gia đình đặc biệt và có những nét tính cách tâm lý đặc biệt hơn so với những bạn cùng lớp, cùng trường. Bản thân tôi là một giáo viên chủ nhiệm có lòng yêu nghề, yêu trẻ nên tôi luôn trăn trở làm thế nào để giúp đỡ các em HSĐB có thể phát huy tốt nhất những điểm mạnh và hạn chế những điểm yếu nên tôi đã chọn đề tài này. I. Cơ sở lí luận Một trong những tư tưởng đổi mới GD& ĐT hiện nay là phát huy vai trò của GVCN, tăng cường giáo dục đạo đức cho học sinh, bên cạnh đó là sự giáo dục toàn diện cho học sinh, được thể hiện trong nghị quyết của Đảng, Luật giáo dục và các văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Luật giáo dục 2005 đã xác định: “Mục tiêu giáo dục phổ thông là giúp cho học sinh phát triển toàn diện về đạo đức, trí tuệ, thể chất, thẩm mỹ và các kĩ năng cơ bản nhằm hình thành nhân cách con người Việt Nam Xã hội Chủ nghĩa, xây dựng tư cách và trách nhiệm công dân” ( Điều 23 – Luật giáo dục). Về mặt thực tiễn, hội nhập kinh tế bên cạnh mặt tích cực, nó còn làm phát sinh những vấn đề mà chúng ta cần quan tâm: Bản sắc văn hóa dân tộc bị đe dọa, hội nhập kinh tế quốc tế đưa vào nước ta những sản phẩm đồi trụy, phản nhân văn, reo rắc lối sống tự do tư sản, làm xói mòn những giá trị đạo đức, thuần phong mỹ tục của dân tộc. Nền kinh tế thị trường phát triển có nhiều mặt tốt làm cho con người sống năng động hơn, thực tế hơn và tất nhiên cũng mang lại một cuộc sống vật chất đầy đủ hơn. Chúng ta đã được tiếp cận với thế giới văn minh nhiều hơn, chất lượng cuộc sống về mọi mặt được nâng lên rõ rệt, nhưng mặt trái của nền kinh tế thị trường đã len lỏi vào ngõ ngách của cuộc sống hàng ngày. Đặc biệt mặt tiêu cực của cơ chế thị trường tác động mạnh mẽ vào quan hệ gia đình và 3 Thế mà, trong thực tế có những quan niệm sai lầm trong nhận thức về chức vụ GVCN lớp chưa tương xứng với tầm quan trọng của chức vụ này, chưa đúng với các văn bản luật cũng như các văn bản quản lí giáo dục quy định và thậm chí có cả những phương pháp giáo dục lỗi thời. Ngoài ra có những GVCN lớp quá dễ dãi, buông lỏng quản lý, thiếu trách nhiệm với lớp, với chức năng đã được giao. Hoặc trong thực tế cũng có những thầy cô chủ nhiệm chưa qua tâm đúng mức đến đối tượng HSĐB. GVCN thường chỉ chú ý đến đối tượng học sinh ngoan hoặc hoặc sinh chưa ngoan. Đối với học sinh chưa ngoan nhiều GVCN không có những phương pháp giáo dục phù hợp nên không đạt đến hiệu quả giáo dục thường tỏ ra bất lực, buông xuôi, mặc kệ hoặc trao trả về cho gia đình giáo dục. Đối tượng và sản phẩm của giáo dục chính là con người. Vì vậy muốn tạo ra những con người có ích cho xã hội thì ngoài tinh thần trách nhiệm, lòng yêu nghề, yêu trẻ người giáo viên cần có phương pháp giáo dục đúng đắn phù hợp vời điều kiện tình hình hiện nay. II. Cơ sở thực tiễn 1. Thuận lợi: - Đảng bộ, chính quyền, các cơ quan đoàn thể ở Thượng Thanh rất quan tâm và tạo điều kiện đối với việc giáo dục học sinh ở trường THCS. - Ban Giám hiệu nhà trường rất chú trọng đến việc phân công GVCN lớp và quan tâm tới việc giáo dục học sinh đặc biệt. - Ban đại diện Hội Cha mẹ học sinh luôn luôn phối hợp tốt với nhà trường và GVCN trong việc giáo dục học sinh. - Nhiều phụ huynh quan tâm và rèn cho con từ việc học cho đến nề nếp kỉ luật. - Đội ngũ GVCN ở trường Thượng Thanh đa số đều là những giáo viên trẻ, nhiệt tình, tâm huyết với công tác chủ nhiệm. - GVCN phối hợp rất tốt với giáo viên bộ môn và giáo viên Tổng phụ trách, các tổ chức Đội Thiếu niên Tiền Phong Hồ Chí Minh, Đoàn Thanh niên cộng sản Hồ Chí Minh trong việc giáo dục học sinh. 5 1. Đối tượng nghiên cứu Đối tượng nghiên cứu của tôi là những HSĐB trong lớp chủ nhiệm tại trường THCS Thượng Thanh. Đó là đối tượng mà tôi sẽ đi sâu tìm hiểu một cách cụ thể chi tiết và đưa ra những giải pháp giúp đỡ, giáo dục các em có hiệu quả. Đối tượng trực tiếp là lớp tôi đã chủ nhiệm. Do sự phân công của nhà trường, năm học 2010 – 2011, tôi đã chủ nhiệm lớp 7B ( một lớp có rất nhiều đối tượng HS đặc biệt) cho hết năm học 2012 - 2013. Cho nên trong phạm vi của đề tài này tôi sẽ khảo sát dựa trên kết quả giáo dục đạo đức của lớp đã chủ nhiệm tại trường THCS Thượng Thanh. 2. Nhiệm vụ nghiên cứu Nhiệm vụ đặt ra là phải hiểu được vai trò của GVCN đồng thời nâng cao vai trò của GVCN thông qua việc giáo dục HSĐB. Muốn làm được như vậy cần đi tìm hiểu đối tượng HSĐB là ai? Phân loại đối tượng HSĐB như thế nào? Tìm hiểu nguyên nhân và các giải pháp giáo dục HSĐB. Để các em hòa nhập vào tập thể lớp, được phát triển một cách toàn diện, cùng góp phần đưa tập thể lớp đi lên. IV. Phương pháp nghiên cứu 1. Phương pháp lý luận: - Đọc, nghiên cứu tài liệu, phân tích, tổng hợp, đối chiếu, so sánh - Thu thập những thông tin lý luận của vai trò của người GVCN lớp trong công tác giáo dục đạo đức HS trên các tập san giáo dục, các bài tham luận trên Internet. 2. Phương pháp quan sát: - Quan sát hoạt động học và sinh hoạt tập thể của HS. 3. Phương pháp điều tra: - Trò chuyện, trao đổi với các GVBM, cán bộ lớp, Ban đại diện hội cha mẹ học sinh, phụ huynh học sinh, bạn bè và hàng xóm của HS. 4. Phương pháp tổng kết kinh nghiệm: - Tham khảo những bản báo cáo, tổng kết hàng năm của nhà trường. 7 Học sinh kính yêu thầy, cô giáo chủ nhiệm lớp như cha mẹ của mình, thân ái, đoàn kết với bạn bè trong lớp như anh em ruột thịt của mình. Lớp học sẽ trở thành một tập thể vững mạnh.Trong rất nhiều giáo viên giảng dạy trong lớp, GVCN bao giờ cũng để lại những ấn tượng sâu sắc và lòng kính trọng nhất của học sinh trong suốt cuộc đời. Tình cảm của lớp càng bền chặt, tinh thần trách nhiệm và uy tín của GVCN càng cao thì chất lượng giáo dục càng tốt. 3. Giáo viên chủ nhiệm lớp là người tổ chức các hoạt động giáo dục học sinh trong lớp Vai trò tổ chức của GVCN thể hiện trong việc thành lập bộ máy tự quản của lớp, phân công trách nhiệm cho từng cá nhân và cho các tổ, nhóm và đồng thời tổ chức thực hiện các mặt hoạt động của lớp theo mục tiêu giáo dục đã được xây dựng. Các hoạt động của lớp được tổ chức theo năm mặt giáo dục toàn diện, GVCN phải quán xuyến tất các hoạt động của lớp một cách chặt chẽ. Chất lượng học tập và tu dưỡng đạo đức của học sinh trong lớp phụ thuộc rất nhiều vào khả năng tổ chức giáo dục của GVCN. 4. Giáo viên chủ nhiệm là cố vấn đắc lực của chi đội Thiếu niên và chi đoàn Thanh niên trong công tác tổ chức và sinh hoạt tập thể GVCN lớp là Đoàn viên hay Đảng viên những người đã nắm vững điều lệ, tôn chỉ mục đích, nghi thức và nội dung hoạt động của các đoàn thể, với những sáng kiến kinh nghiệm công tác của mình, làm tham mưu cho các đoàn thể trong việc lập kế hoạch công tác, thành lập ban lãnh đạo chi đội, chi đoàn, tổ chức các mặt hoạt động, sinh hoạt các đoàn thể và phối hợp với công tác của lớp sẽ đem lại hiệu quả rất cao. 5. Giáo viên chủ nhiệm lớp giữ vai trò chủ đạo trong việc phối hợp với các lực lượng giáo dục Gia đình, nhà trường và xã hội là ba lực lượng giáo dục, trong đó nhà trường là cơ quan giáo dục chuyên nghiệp, giáo viên là nhà giáo dục chuyên nghiệp, hoạt 9 Để phân loại học sinh đặc biệt phải nghiên cứu môi trường xuất thân, hoàn cảnh sống về vật chất, tinh thần, các phương tiện thông tin văn hóa gia đình thường sử dụng. Đồng thời nghiên cứu đặc điểm tâm sinh lí của học sinh như: khả năng nhận thức, năng khiếu, sở thích, sức khỏe ( tốc độ phát triển cơ thể, loại hình thần kinh, thị giác, thính giác, bệnh lí) kết quả học tập rèn luyện của các năm trước. Qua theo dõi đã phát hiện những năm gần đây học sinh đặc biệt đang có xu hướng tăng theo xu thế phát triển của xã hội, theo cơ chế thị trường. Học sinh đặc biệt biểu hiện ở nhiều khía cạnh khác nhau tuy nhiên ở đây tạm chia làm bốn nhóm. 2.1. Nhóm thứ nhất: Học sinh có năng khiếu sở trường đặc biệt. Các em ở nhóm này thường có biểu hiện vượt trội về một năng khiếu nào đó như hát, múa, vẽ, võKhi đúng sở trường của các em các em tham gia rất hăng hái, nhiệt tình, đạt hiệu quả tốt. Những em này có năng khiếu sẵn có cộng thêm sự đam mê nên các em rất tự tin ở mình. Tuy nhiên đôi khi do quá ham mê mà các em sao nhãng việc học hoặc hoàn toàn không tập trung vào việc học gây khó khăn cho các thầy cô giáo 2.2. Nhóm thứ hai: Học sinh thông minh xuất chúng trong học tập. Đó là những em ngay từ khi sinh ra đã sở hữu một trí tuệ đặc biệt thông minh, tiếp thu rất nhanh hoặc vượt trội hơn nhiều so với các bạn cùng lớp. Những em này thường chỉ tập trung vào việc học mà không quan tâm tới bất kì việc gì khác, không giao lưu bạn bè, thường sống khép kín 2.3. Nhóm thứ ba: Học sinh có hoàn cảnh gia đình rất đặc biệt. Thông thường những em học sinh này hay mặc cảm, tự ti hoặc bất cần, ngỗ ngược vì thiếu sự quan tâm của gia đình: bố mẹ bỏ nhau, bố mẹ đều mất hoặc vướng vào vòng lao lýcác em không có ai chăm sóc, thương yêu, dạy dỗ 2.4. Nhóm thứ tư: Học sinh có đặc điểm tâm, sinh lý, tính cách đặc biệt. Nhóm này thường chia làm 2 loại tính cách điển hình. 11 đại như chứng béo phì hay tự kỉ. Đây cũng là nguyên nhân khiến các em mặc cảm, tự ti, hạn chế trong giao tiếp. Hoặc đó cũng có thể là khí chất sẵn có của các em: như nóng nảy, thiếu kiềm chế, nghịch ngợm hay nhút nhát, ít nói, thích ở một mình 3.3. Do môi trường gia đình: Gia đình là tế bào của xã hội cho nên gia đình cũng chịu tác động rất lớn từ môi trường xã hội. Xã hội hiện đại, con người bận rộn, nhiều chuẩn mực đạo đức bị đảo lộn khiến cho các ông bố bà mẹ trong các gia đình cũng bị ảnh hưởng tiêu cực. Có những gia đình vì mải mê kiếm tiền nên phó mặc con cái cho ông bà hay người thân không quan tâm đến nhu cầu tình cảm của con. Hoặc cũng có những gia đình bố mẹ đi tìm hạnh phúc riêng bỏ mặc con cái. Hoặc có những ông bố bà mẹ vào tù ra tội nên không thể trở thành tấm gương tốt cho con. Sống trong môi trường như thế các em cũng dễ nảy sinh những tình cảm tiêu cực, những hành vi không đúng với chuẩn mực đạo đức. Và để giải tỏa những bức xúc trong lòng nên các em thường có những biểu hiện chống đối hay bất cần, vô trách nhiệm, sống buông thả, không chịu nghe lời người lớn. Hoặc ngược lại có những em lại được bố mẹ cưng chiều hết mức, muốn gì được nấy, lấy tiền để bù đắp những thiếu thốn về mặt tình cảm. Cho nên các em có biểu hiện sống ích kỉ, không biết tôn trọng người khác, không có ý chí phấn đấu, ăn chơi, đua đòi... 3.4. Do tác động tiêu cực từ môi trường xã hội: Con người chính là sự tổng hòa của các mối quan hệ xã hội. Cho nên con người nói chung và các em học sinh nói riêng đều chịu ảnh hưởng từ môi trường sống xung quanh. Và những em học sinh còn non nớt dễ dàng bị lôi kéo, bị ảnh hưởng từ những mặt trái của nền kinh tế thị trường. Công nghệ thông tin phát triển các em dễ bị cuốn hút bởi những trò chơi điện tử hấp dẫn nhưng chứa đầy bạo lực hoặc những văn hóa phẩm không lành mạnh dễ dàng xâm nhập vào các em. Ngoài ra còn các dịch vụ mang tính giải trí khác như bia, karaoke, vũ trườngđập vào mắt các em 13
File đính kèm:
- skkn_nang_cao_vai_tro_cua_giao_vien_chu_nhiem_o_truong_thcs.doc