SKKN Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học trực quan vào dạy học từ ngữ trong chương trình Ngữ văn 8

doc 16 trang sklop8 09/07/2024 860
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học trực quan vào dạy học từ ngữ trong chương trình Ngữ văn 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học trực quan vào dạy học từ ngữ trong chương trình Ngữ văn 8

SKKN Một vài kinh nghiệm về vận dụng phương pháp dạy học trực quan vào dạy học từ ngữ trong chương trình Ngữ văn 8
 PHÒNG GD&ĐT KRÔNG ANA
 TRƯỜNG THCS TÔ HIỆU
 ĐỀ TÀI: 
 MỘT VÀI KINH NGHIỆM VỀ 
 VẬN DỤNG PHƯƠNG PHÁP DẠY HỌC TRỰC QUAN 
VÀO DẠY HỌC TỪ NGỮ TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 8
 Thuộc bộ môn: Ngữ văn 
Họ và tên: Nguyễn Thị Minh Châu 
 Chức danh: Giáo viên
 Trình độ chuyên môn: Đại học
 Chuyên ngành đào tạo: Ngữ văn
 Krông Ana, tháng4 năm 2019 Phần thứ nhất: MỞ ĐẦU
I. Đặt vấn đề
Nhà văn nổi tiếng người Pháp An-phông-xơ Đô-đê từng viết: “ Khi một dân tộc rơi 
vào vòng nô lệ, chừng nào họ còn giữ vững tiếng nói của mình thì chẳng khác 
nào nắm được chìa khóa chốn lao tù” [1, Tr.52]. Đúng vậy, tiếng mẹ đẻ có một 
vai trò vô cùng quan trọng mà bất kì một quốc gia nào cũng không thể phủ nhận, nó 
khẳng định bản sắc riêng, chủ quyền riêng của một dân tộc. Vì vậy, dạy học tiếng 
Việt trong nhà trường là một phần quan trọng trong hệ thống giáo dục Việt Nam 
nhằm duy trì, bảo tồn và phát huy tiếng nói dân tộc cũng là cơ sở để giữ vững nền 
độc lập của đất nước. Mà cơ sở đầu tiên của tiếng Việt là từ ngữ, bởi muốn học 
sinh sử dụng tốt tiếng Việt thì phải làm cho các em có một vốn từ phong phú.
Tuy nhiên việc dạy học từ ngữ tiếng Việt như thế nào cho hiệu quả là điều mà các 
giáo viên bộ môn Ngữ văn quan tâm và tìm cách thực hiện bởi tiếng Việt là ngôn 
ngữ rất đa dạng và phong phú cả về mặt ngữ âm lẫn ngữ nghĩa. Điều khó khăn nhất 
là đối với giáo viên ở vùng sâu, vùng xa - nơi có nhiều học sinh đồng bào dân tộc 
thiểu số. Có thể nói tiếng Việt là ngôn ngữ thứ hai của các em cho nên để cho các 
em yêu thích, hứng thú trong việc học từ ngữ tiếng Việt khiến các giáo viên trăn 
trở, tìm hướng giải quyết. Hưởng ứng và tích cực thực hiện phong trào “Đổi mới và 
nâng cao chất lượng giáo dục”, nhiều giáo viên đã không ngừng tìm tòi đưa ra 
nhiều phương pháp để thực nghiệm, cố gắng tìm một hướng đi hiệu quả trong việc 
dạy học từ ngữ cho học sinh. Thế nhưng để tìm ra được biện pháp tối ưu là rất khó, 
cần có sự giúp sức của nhiều người. 
Là một giáo viên dạy bộ môn Ngữ văn, tôi cũng mong muốn được đóng góp phần 
nào vào việc nâng cao chất lượng phân môn tiếng Việt nói chung và phần từ ngữ 
nói riêng. Bản thân cũng đã thử nghiệm một số phương pháp dạy học tích cực và 
nhận thấyphương pháp trực quan có khả năng đem lại hiệu quả với đối tượng học 
sinh vùng đặc biệt khó khăn có nhiều đồng bào dân tộc thiểu số. Nó sẽ khiến cho 
bài dạy sinh động hơn, kích thích hứng thú cho học sinh và làm cho các em dễ hiểu 
hơn. Đó là lý do tôi chọn đề tài này để nghiên cứu.
II. Mục tiêu nghiên cứu
Với việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan vào phần từ ngữ tiếng Việt, tôi 
muốn đem lại cho các em sự hứng thú trong các giờ học tiếng Việt. Qua đó dễ nắm 
bắt bài hơn, ứng dụng vào giao tiếp tốt hơn, sử dụng tiếng Việt chuẩn hơn đó cũng 
là cách bảo vệ sự trong sáng của tiếng nói dân tộc.
 1 đề cập đến phương pháp này ở một số bộ môn Trung học cơ sở, trong đó có phân 
môn tiếng Việt của bộ môn Ngữ văn. Tất cả đều cho thấy những cái hay, cái lợi thế 
của phương pháp và đưa ra những giải pháp khá hữu hiệu. Đồng quan điểm đó, tôi 
mạnh dạn nghiên cứu và thử nghiệm Phương pháp dạy học trực quan vào dạy học 
phần từ ngữ Tiếng Việt trong chương trình Ngữ văn lớp 8.
II.Thực trạng của vấn đề
Qua thực tế giảng dạy ở trường THCS Tô Hiệu, tôi nhận thấy việc tiếp thu các bài 
về từ ngữ của học sinh còn rất chậm, đặc biệt là đối tượng học sinh đồng bào dân 
tộc thiểu số. Các em có vẻ rất khó khăn trong việc sử dụng từ tiếng Việt để giao tiếp 
bởi bất đồng với tiếng mẹ đẻ và tiếng Việt lại khá phức tạp. Mặc dù tiếng Việt hay 
và đẹp nhưng các em không cảm nhận được cái hay, cái đẹp mà chỉ thấy khô khan, 
trừu tượng nên không hứng thú, tiết học thiếu sôi nổi. Không khí lớp học cũng làm 
ảnh hưởng không ít đến cảm hứng của giáo viên. Không những thiếu hứng thú mà 
giáo viên còn gặp khó khăn trong việc truyền đạt cho các em hiểu. Vì vậy mà chất 
lượng phân môn tiếng Việt nói chung và phần từ ngữ nói riêng là rất thấp. Qua khảo 
sát chất lượng phần từ ngữ ở lớp 8A2 và 8A4 năm học 2015-2016, tôi thu được kết 
quả như sau:
 Lớp TSHS Trên TB Dưới TB
 Số lượng Tỉ lệ Số lượng Tỉ lệ
 8A2 34 19 55,9 % 15 44,1 %
 8A4 38 22 58% 16 42 %
Tổng cộng 72 41 56,9% 31 43,1%
III. Các giải pháp đã tiến hành để giải quyết vấn đề
Tiếng Việt là phương tiện giao tiếp và là công cụ để thực hiện các hoạt động của xã 
hội, là tiền đề cho các môn học khác trong nhà trường, phục vụ cho việc thực hiện 
mục tiêu giáo dục như: đào tạo con người toàn diện, có đạo đức, tri thức, sức khỏe, 
thẩm mĩ và nghề nghiệp; trung thành với lí tưởng độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã 
hội; hình thành và bồi dưỡng nhân cách, phẩm chất và năng lực của công dân, đáp 
ứng yêu cầu của sự nghiệp xây dựng và bảo vệ tổ quốc. Chính vì vậy, điều đầu tiên 
và quan trọng nhất trong dạy học Tiếng Việt là giúp các em học sinh nắm vững vốn 
kiến thức về từ ngữ. Chỉ có nắm vững từ ngữ, hiểu biết được về từ ngữ thì mới giúp 
các em tiếp nhận và truyền đạt được, có như vậy thì hoạt động giao tiếp mới đạt 
hiệu quả và mục tiêu giáo dục mới thực hiện được.Để thực hiện được nhiệm vụ 
quan trọng trên, giáo viên cần sử dụng kết hợp các phương pháp dạy học tích cực, 
 3 liệu sẽ phong phú hơn, bởi chúng ta có thể sử dụng được những video, hình 
ảnhđộngliên quan đến bài dạy nhiều hơn, dễ gây hứng thú cho học sinh. Mặc dù tư 
liệu nhiều nhưng giáo viên phải biết lựa chọn sao cho phù hợp, dễ thể hiện được 
nội dung bài học nhất, học sinh nắm bắt được bài tốt nhất. Như đã nói trên, phương 
pháp dạy học này là từ việc tri giác trực tiếp sự vật, hiện tượng mà tác động đến 
nhận thức của người học. Vì vậy, những tư liệu đưa vào phải thực sự tác động đến 
tri giác của các em. Khi dạy bài “Cấp độ khái quát của nghĩa từ ngữ”,để giới thiệu 
vào bàigiáo viên có thể đưa mấy bông hoa khác nhau, cho các em nêu tên từng 
bông hoa rồi gợi dẫn cho học sinh tìm một từ ngữ chung để gọi cho tất cả các bông 
hoa đó. Nhìn vào đó, học sinh sẽ trả lời được là từ “bông” hoặc từ “hoa” và qua đó 
giáo viên chỉ cho học sinh từ nghĩa rộng, từ nghĩa hẹp và giới thiệu bài dạy. Nếu 
dạy bằng máy chiếu thì có thể lấy ví dụ này bằng hình ảnh:
Hoa cúcHoa hồngHoa maiHoa phượng(Nghĩa hẹp)
Hoa (Nghĩa rộng)
 Hình 1: Ví dụ giới thiệu bài
Việc giới thiệu bài theo cách này sẽ tạo được tâm thế tốt cho học sinh trước khi vào 
bài mới, thu hút các em quan tâm vào nội dung của bài học sắp tới, sẵn sàng tinh 
thần học tập, tiếp thu bài. Bởi ngay từ đầu đã tạo được tò mò, hứng thú đối với các 
em.
Còn ở phần phân tích ví dụ về “Động vật” trong sách giáo khoa để hình thành kiến 
thức, giáo viên có thểsưu tầm thêm hình ảnh về các loài động vật cho nó sinh động 
và khiếnhọc sinh hứng thú hơn chứ chỉ giải thích bằng từ ngữ thì vất vả cho giáo 
viên mà các em cũng khó hình dung:
 5 Như vậy, việc sưu tầm tư liệu, phục vụ cho giáo viên soạn giảng thuận tiện hơn. 
Bài dạy chắc chắn sinh động, hấp dẫn hơn, đem lại hứng thú cho học sinh bởi tư 
liệu phong phú. 
2. Giải pháp 2: Thiết kế giáo án
Đây là bước đóng vai trò quyết định cho sự thành công của tiết dạy vì nó định 
hướng nội dung cũng như cách thức, phương pháp lên lớp. Thông thường thì các 
bài tiếng Việt nói chung và bài từ ngữ nói riêng, đều đã có các phần mục cụ thể ở 
trong sách giáo khoa, giáo viên không phải mất thời gian nghiên cứu cách đặt các 
đề mục của bài giống như phần văn bản. Tuy nhiên để giải quyết tốt các phần mục 
đó, giáo viên cần có định hướng rõ ràng, lựa chọn phương pháp phù hợp để đạt 
được yêu cầu đặt ra là học sinh phải nắm được cái gì ở phần đó. Phương pháp dạy 
học trực quan là phương pháp tích cực, tạo sự sinh động cho tiết dạy và đem lại 
hứng thú cho học sinh, nó rất cần thiết đối với những bài dạy từ ngữ có phần khô 
khan và trừu tượng này. Để phát huy hiệu quả của phương pháp, giáo viên phải có 
biện pháp thiết kế giáo án cho phù hợp.
2.1. Lựa chọn tư liệu 
Trong quá trình soạn giảng, phải lựa chọn tư liệu đã được sưu tầm. Bởi vì khi sưu 
tầm, có thể giáo viên lấy nhiều tư liệu cho cùng một nội dung, nhưng khi đưa vào 
bài soạn thì cần phải lựa chọn kĩ lưỡng để đưa vào sử dụng một vài tư liệu chuẩn 
nhất, phù hợp và đem lại hiệu quả nhất. Có như vậy thì chất lượng bài dạy mới 
được đảm bảo mà cũng không ảnh hưởng đến thời gian của tiết dạy.
2.2. Xác định vị trí đặt tư liệu
 Trong giáo án, việc đưa các tư liệu vào phần nào, nhằm mục đích gì là điều quan 
trọng buộc giáo viên phải quan tâm, làm sao để vừa đảm bảo về mặt thời gian, vừa 
làm nổi bật được nội dung của bài.
Ví dụ: Khi thiết kế bài dạy “Từ tượng hình, từ tượng thanh” (Sgk ngữ văn 8, tập 1). 
Để tạo tâm thế vào bài cho học sinh, giáo viên cho các em nghe một số âm thanh và 
một số hình ảnh, dáng vẻ (tự tạo hoặc qua tranh ảnh, máy tính) rồi gợi dẫn vào bài 
khiến cho học sinh hứng thú hơn và phần nào hình dung được nội dung bài học. 
Vào phần I- Đặc điểm và công dụng, sau khi hướng dẫn học sinh tìm hiểu ngữ liệu 
trong sách giáo khoa và rút ra được khái niệm thì giáo viên nên cho các em xem 
một vài tư liệu có âm thanh, hình ảnh và cho các em tìm từ tượng hình, tượng thanh 
để củng cố phần này (có thể là một bài múa, bài cồng chiêng, hình ảnh một trận lũ 
lụt mới xảy rahoặc cho học sinh biểu diễn một một đoạn bài hát, múa hay dáng 
 7 Ở ví dụ này, có biệt ngữ xã hội là trúng tủvà học tủ, giáo viên vừa cho học sinh tìm 
được biệt ngữ xã hội, vừa giáo dục các em sử dụng biệt ngữ xã hội khi giao tiếp. Ở 
đây A và B dùng hai biệt ngữ đó để giao tiếp với nhau là hợp lý vì cả hai cùng 
thuộc tầng lớp học sinh nên đều hiểu được, còn nếu dùng để trò chuyện với người 
bà thì không hợp lý. Đó là điều cần chú ý khi sử dụng biệt ngữ xã hội trong giao 
tiếp. Tương tự với từ ngữ địa phương cũng vậy, giáo viên có thể sử dụng tư liệu để 
thực hiện.
Như vậy, nghĩa là mỗi phần chúng ta lựa chọn một tư liệu phù hợp để chuyển tải 
được mục tiêu đã đặt ra một cách hiệu quả nhất, không phải tập trung vào một lúc 
mà cũng không phải đưa vào một cách miễn cưỡng cho có hình ảnh trực quan mà 
tất cả phải nhằm một mục đích cuối cùng là học sinh hiểu bài. Do đó, cách thiết kế 
bài giảng rất quan trọng, nếu giáo viên không làm kĩ ở phần này mà sử dụng 
phương pháp trực quan một cách thụ động, bừa bãi sẽ phản tác dụng của nó, mất 
mạch cảm xúc của bài, học sịnh bị loãng kiến thức.
3. Giải pháp 3: Thực hiện dạy trên lớp
Thực hiện tiết dạy trên lớp là bước cuối cùng của một bài dạy. Đây là bước để đánh 
giá quả trình chuẩn bị, năng lực thực hiện cũng như phương pháp dạy học của giáo 
viên. Việc sử dụng phương pháp dạy học trực quan có hiệu quả hay không phụ 
thuộc vào cách thực hiện của giáo viên trong tiết dạy. Để làm tốt bước này, tôi tiến 
hành các biện pháp sau:
3.1. Thực hiện tốt tiến trình đã được chuẩn bị
 Giáo viên phải thực hiện thật tốt tiến trình như đã chuẩn bị trong giáo án, làm 
chủ được kiến thức và phương pháp cũng như các tư liệu được sử dụng. Mặc dù 
trong các tiết dạy có nhiều tình huống bất ngờ xảy ra ngoài sự chuẩn bị buộc giáo 
viên phải xử lý một cách linh hoạt bằng khả năng của mình, nhưng sau đó giáo viên 
phải nhanh chóng lái nội dung bài dạy theo quỹ đạo mà mình đã chuẩn bị bởi sự 
chuẩn bị trong giáo án là nội dung và phương pháp mà giáo viên đã dày công 
nghiên cứu, nhất là phương pháp dạy học trực quan.
3.2. Gợi mở cho học sinh:
Tùy vào đối tượng học sinh để thực hiện các phương pháp dạy học cho phù hợp. 
Với đối tượng học sinh yếu kém nhiều, chủ yếu là đồng bào dân tộc thiểu số thì khi 
chuẩn bị đưa vào các tư liệu trực quan, giáo viên nên gợi mở trước tạo tâm thế sẵn 
sàng cho học sinh, tránh mất thời gian làm đi làm lại. Ví dụ khi chuẩn bị đưa vào 
một clip để cho học sinh xem và tìm từ tượng hình, từ tượng thanh thì giáo viên nên 
 9

File đính kèm:

  • docskkn_mot_vai_kinh_nghiem_ve_van_dung_phuong_phap_day_hoc_tru.doc