SKKN Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình Ngữ văn 8

docx 9 trang sklop8 06/06/2024 490
Bạn đang xem tài liệu "SKKN Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình Ngữ văn 8", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình Ngữ văn 8

SKKN Một số biện pháp giúp học sinh làm tốt bài tập làm văn trong chương trình Ngữ văn 8
 MỘT SỐ BIỆN PHÁP GIÚP HỌC SINH LÀM TỐT BÀI TẬP LÀM VĂN
 TRONG CHƯƠNG TRÌNH NGỮ VĂN 8
1. Tìm hiểu đề (hay còn gọi là phân tích đề):
 Để có một bài văn hoàn chỉnh người viết phải trải qua năm bước (Tìm hiểu 
đề, tìm ý, lập dàn ý, viết bài văn, đọc và sửa bài), trong đó tìm hiểu đề là bước thứ 
nhất. Kĩ năng tìm hiểu đề là kĩ năng định hướng cho toàn bộ quá trình thực hiện 
một bài tập làm văn. Tuy vậy đa số học sinh thường không chú ý đến bước này. Vì 
vậy trong quá trình làm bài các em thường lạc đề hoặc lệch đề nên bài văn thường 
không có điểm cao. 
 Cũng chính vì lẽ đó hướng dẫn các em làm tốt bước này sẽ giúp học sinh 
tránh được việc lạc đề, lệch đề. Từ đó bài văn sẽ tốt hơn.
 Nắm được hạn chế đó của học sinh nên tôi luôn hướng dẫn học sinh thực 
hiện thao tác này và nó được lặp đi lặp lại ở mỗi bài viết cũng như trước các đề 
trong bài học. Trên cơ sở đó các em sẽ biến nó thành một kĩ năng cần thiết trước 
khi viết bài.
 Để học sinh xem tìm hiểu đề là một bước không thể thiếu khi làm bài thì 
giáo viên phải giúp các em thành thạo bước này trong quá trình dạy học. Người 
giáo viên nên tận dụng thời gian để cho các em luyện tập. 
 Ví dụ: 
 Như ra đề rồi yêu cầu HS về nhà thực hiện, trước các bài viết số 1, số 2, 
trong các đề có trong SGK, 
 Để giúp học sinh tìm hiểu đề, trước một đề bài tôi thường yêu cầu học sinh 
đọc nhiều lần (thậm chí yêu cầu học sinh đọc thuộc đề); lấy bút chì gạch chân 
những từ cần chú ý, chép lại đề với những ý có gạch đầu dòng để làm cho nổi bật 
các yêu cầu của đề; xác định ba yêu cầu của đề.
 Kết quả của bước tìm hiểu đề phải giúp học sinh xác định được tất cả các 
yêu cầu của đề bài:
 - Kiểu bài: Tự sự hay miêu tả, tường thuật hay giải thích, 
 Lời yêu cầu về kiểu bài: theo lối trực tiếp – nói thẳng (như hãy kể  ) hay 
lời yêu cầu gián tiếp – nói vòng (như Em thấy mình đã khôn lớn  ) Từ nội dung đó giáo viên nhắc nhở học sinh: từ bây giờ, trước khi viết một 
bài văn các em nên tìm hiểu đề bài trước để viết bài văn cho tốt bằng cách thực 
hiện các yêu cầu như bài tập các em vừa làm. Có thể khái quát thành hai nội dung 
cơ bản (ta gọi là Tìm hiểu đề):
 - Xác định kiểu bài;
 - Xác định nội dung của đề bài;
- Xác định giới hạn của đề bài.
 Sau khi hướng dẫn các em thực hiện xong giáo viên có thể ra đề yêu cầu các 
em về nhà làm. Ở tiết học tiếp theo giáo viên xem bài các em làm và cho điểm (nếu 
làm tốt).
 Ví dụ 2: 
 Khi dạy xong bài Xây dựng đoạn văn trong văn bản (tiết 10 – bài 3), giáo 
viên yêu cầu học sinh: Ngoài việc chuẩn bị để làm bài các em thực hiện trước bước 
tìm hiểu đề cho các đề có trong phần Viết bài tập làm văn số 1 – văn tự sự.
 Tới tiết 11-12, trước khi viết bài giáo viên yêu cầu 1 hoặc 2 học sinh trình 
bày kết quả việc tìm hiểu đề rồi mới đi vào viết bài.
 Học sinh trả lời :
 Đề 1: Kể lại những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học.
 - Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu trực tiếp.
 - Giới hạn: những kỉ niệm trong ngày đầu tiên đi học (chỉ trong ngày đầu 
tiên mà thôi).
 Đề 2. Người ấy (bạn, thầy, người thân, ) sống mãi trong lòng tôi.
 - Kiểu bài: kể (tự sự), yêu cầu gián tiếp.
 - Giới hạn: chỉ kể về một người thân (có thể là một kỉ niệm khó quên với 
người đó).
 Ví dụ 3: 
 Tương tự như ví dụ 2, trước khi Viết bài viết số 2, giáo viên cũng yêu cầu 
học sinh thực hiện bước tìm hiểu đề.
 Trong quá trình dạy – học (nhất là ở tiết trả bài) tôi đã cho học sinh thấy một 
cách nghiêm túc rằng lạc đề là lỗi nặng nhất, nghiêm trọng nhất của một bài tập - Đoạn văn ở trang 26 là đoạn văn viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở 
đầu đoạn), chủ đề là nói về vẻ đẹp huyền ảo trong ngày của Ba Vì.
 - Đoạn giới thiệu về Nam Cao ở trang 45 được viết theo lối song hành (từ 
ngữ chủ đề là Nam Cao, ông), đối tượng là Nam Cao.
 Học sinh trả lời được như vậy là đã nắm được “Thế nào là đoạn văn”. Trên 
cơ sở đó tôi cho học sinh đi vào thực hành kĩ năng viết đoạn văn.
 Ví dụ 2: 
 Tiếp tục bài tập nhận diện đoạn văn, giáo viên có thể yêu cầu các em về nhà 
đọc các văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục, Huế rồi yêu cầu các em xác định: 
văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục được viết theo kiểu nào: Trong văn bản 
Huế đoạn văn nào được viết theo kiểu diễn dịch? 
 Học sinh trả lời:
 Văn bản Tại sao lá cây có màu xanh lục là đoạn văn quy nạp (câu chủ đề 
nằm ở cuối đoạn – Văn bản này chỉ có một đoạn văn). Trong văn bản Huế có đoạn 
văn thứ hai và đoạn văn thứ ba được viết theo lối diễn dịch (câu chủ đề nằm ở đầu 
đoạn).
 Khi học sinh nhận diện đúng đoạn văn tức là các em đã nắm được kiến thức 
về đoạn văn. Từ đây giáo viên bắt đầu cho các em thực hành viết đoạn văn.
 Trong quá trình học, học sinh được học rất nhiều văn bản tự sự. Đó là điều 
kiện giúp các em viết tốt đoạn văn tự sự.
 Khi cho học sinh thực hành viết đoạn văn giáo viên cũng cần chia làm hai 
giai đoạn: trước hết cho học sinh viết đoạn văn với câu chủ đề cho trước, tiếp theo 
mới là viết theo yêu cầu mà không có câu chủ đề (học sinh tự đặt câu).
 Ví dụ 1: 
 Khi học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4) tôi cho học 
sinh bài tập về nhà: Về nhà mỗi em viết một đoạn văn nói về Lão Hạc – người 
nông dân Việt Nam trước cách mạng tháng tám (cho HS câu chủ đề: Lão Hạc là 
con người nghèo khổ nhưng lão có nhiều phẩm chất đáng quý.)
 Tới tiết 16 – Liên kết đoạn văn trong văn bản, khi kiểm tra bài cũ xong, GV 
mời một HS trình bày đoạn văn của mình cho thầy cùng cả lớp nghe rồi GV nhận 
xét. Cuối tiết học GV thu bài lại để về nhà chấm, nhận xét và sửa cho HS. Có thể nói việc luyện viết đoạn văn tự sự là rất cần thiết, học sinh viết tốt 
đoạn văn tự sự có nghĩa là học sinh đã nắm được những yêu cầu của đoạn văn. 
Trên cơ sở đó khi học văn bản thuyết minh và văn nghị luận học sinh sẽ viết tốt 
đoạn văn - đó là một trong những tiền đề để học sinh làm tốt các kiểu văn bản 
khác.
3 Liên kết đoạn văn trong văn bản:
 Một bài văn được tạo thành bởi nhiều đoạn văn liên kết lại với nhau. Bài văn 
là một chỉnh thể hoàn chỉnh nên giữa các đoạn văn cần có sự liên kết với nhau. 
Liên kết đoạn văn nhằm mục đích làm cho ý của cả đoạn vừa phân biệt nhau vừa 
liền mạch với nhau một cách hợp lí, tạo tính chỉnh thể cho văn bản. Muốn vậy, 
phải tạo mối quan hệ ngữ nghĩa chặt chẽ, hợp lí giữa các đoạn văn với nhau và sử 
dụng các phương tiện liên kết phù hợp.
 Trong chương trình ngữ văn 8 học sinh đã được học “Liên kết các đoạn văn 
trong văn bản” ở tiết 16, bài 4.
 Trên cơ sơ bài học này giáo viên hướng dẫn học sinh thực hành việc liên kết 
đoạn văn do các em tạo ra.
 Trước hết giáo viên cho học sinh làm bài tập nhận diện các phương tiện liên 
kết đoạn văn.
 Ví dụ 1: 
 Khi dạy xong bài Liên kết các đoạn văn trong văn bản - tiết 16, bài 4, giáo 
viên yêu cầu: về nhà các em đọc văn bản Cô bé bán diêm (An - đéc - xen) ở trang 
64. Sau đó xác định các từ ngữ và câu có tác dụng nối giữa các đoạn văn trong văn 
bản đó.
 Tới tiết 18, bài 5 - Tóm tắt văn bản tự sự, trong phần kiểm tra bài cũ, giáo 
viên mời học sinh trình bày (giáo viên kết luận) những từ ngữ, câu có tác dụng nối 
như:
- Em quẹt que diêm thứ hai,
 - Em quẹt que diêm thứ ba.
 - Em quẹt que diêm nữa vào tường, 
 - Thế là 
 - Sáng hôm sau, Học xong văn bản Lão Hạc của Nam Cao (tiết 13 -14, bài 4), học sinh biết 
rằng chị Dậu và lão Hạc là những con người tiêu biểu cho tầng lớp nông dân Việt 
Nam trước cách mạng tháng 8. Giáo viên có thể cho học sinh viết hai đoạn văn nói 
về số phận và tính cách của người nông dân (thông qua lão Hạc và chị Dậu).
 Có thể nói rằng để viết được một bài văn đúng và hay là rất khó, bởi ngoài 
việc có kiến thức vững vàng nó còn đòi hỏi người viết phải vận dụng nhiều kĩ năng 
khác nhau. Nhìn chung các kĩ năng đó các em đã được học nhưng do đặc điểm lứa 
tuổi, cũng như thời gian thực hành còn hạn chế nên người giáo viên phải có biện 
pháp giúp các em thành thạo những kĩ năng đó mới mong các em vận dụng tốt 
được.

File đính kèm:

  • docxskkn_mot_so_bien_phap_giup_hoc_sinh_lam_tot_bai_tap_lam_van.docx