SKKN Cách thể hiện Thi trung hữu họa trong giảng dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (Chương trình Ngữ văn Lớp 8)

pdf 33 trang sklop8 12/09/2024 630
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "SKKN Cách thể hiện Thi trung hữu họa trong giảng dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (Chương trình Ngữ văn Lớp 8)", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: SKKN Cách thể hiện Thi trung hữu họa trong giảng dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (Chương trình Ngữ văn Lớp 8)

SKKN Cách thể hiện Thi trung hữu họa trong giảng dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên (Chương trình Ngữ văn Lớp 8)
 Sáng kiến kinh nghiệm 
 Phần một 
 ĐẶT VẤN ĐỀ 
 I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI: 
 Xuất phát từ đặc điểm tâm sinh lý của học sinh trung học cơ sở khi tiếp nhận 
tác phẩm văn học đã có khả năng liên tưởng, tưởng tượng, khả năng ghi nhớ, tái 
hiện hình tượng văn học và khả năng diễn đạt bằng ngôn ngữ những suy nghĩ 
cảm nhận của mình; Tuy nhiên các em cũng rất dẽ hứng thú tích cực và cũng rất 
dễ chán nản trong hoạt động học. Chính vì lẽ đó rất cần những biện pháp hỗ trợ, 
kích thích của người giáo viên đối với học sinh trong một giờ dạy thì năng lực 
và hứng thú của cá nhân học sinh trong học, đọc văn mới vững bền được. 
 Xuất phát từ việc dạy học văn vừa là một khoa học vừa là một nghệ thuật. 
Người giáo viên với vai trò là người tổ chức hướng dẫn, là người mở cho học 
sinh con đường tự sáng tạo, chủ động tiếp nhận và cảm thụ văn học, người giáo 
viên phải huy động linh hoạt tài năng, nghệ thuật sư phạm của mình để các hoạt 
động học tập văn học của học sinh đạt được hiệu quả cao nhất. 
 Để có một giờ dạy tốt chính bản thân giáo viên cũng phải chủ động và sáng 
tạo mới có thể khơi dây được hoạt động tích cực của học sinh trong lớp, mới gây 
được hứng thú cho học sinh. Tôi nhận thấy dạy học tác phẩm văn học cũng như 
hướng dẫn học sinh làm một món ăn. Và không phải lúc nào cũng chỉ là phương 
thức làm một món. Thực đơn cũng cần phải có sự thay đổi khác lạ nhưng mục 
đích cuối cùng vẫn là cung cấp đủ chất dinh dưỡng cho cơ thể. Những món ăn 
ngon mà lại được trình bày đẹp, ấn tượng bào giờ cũng kích thích được vị giác 
người ăn, cũng gây được sự chú ý và hứng thú. 
 Trở lại việc dạy học văn, tôi nhận thấy mỗi tác phẩm được chọn đưa vào 
chương trình là một sáng tạo của nhà văn, mỗi học sinh lại là một chủ thể tiếp 
nhận cá biệt. Mà văn học lại là một loại hình nghệ thuật phản ánh cuộc sống 
bằng hình tượng. Văn học thông qua chất liệu đặc biệt là ngôn ngữ. Ngôn ngữ 
Phan Thị Vân Anh – Trường THCS Thái Thịnh – Đống Đa – Hà Nội 1 Sáng kiến kinh nghiệm 
người họa sĩ có thể minh họa bằng một bức tranh cụ thể hoặc một vài đường nét 
tạo hình, tạo không gian dựa trên nội dung tác phẩm đó. Tôi thấy “ Ông Đồ” của 
Vũ Đình Liên là 1 thi phẩm như thế!? 
Đặc biệt hơn, Thơ tác động đến người đọc vừa bằng sự nhận thức cuộc sống vừa 
bằng khả năng gợi cảm sâu sắc, vừa trực tiếp với những cảm xúc suy nghĩ cụ 
thể, vừa gián tiếp qua liên tưởng, tưởng tượng phong phú, vừa theo những mạch 
cảm nghĩ và đặc biệt là bằng sự rụng động của ngôn từ giàu hình ảnh và nhạc 
điệu. 
 Để tạo sự khác lạ, sinh động cho bài dạy và cũng để khắc sâu nét đặc trưng 
của loại thể văn học, người giáo viên có thể đưa ra tranh vẽ minh họa, hát một 
bài hát mà bài thơ đang dạy được phổ nhạc, đóng một đoạn kịch  nhằm kích 
thích thị giác, thính giác và các giác quan của học sinh, từ đó gây hứng thú cho 
học sinh đối với bộ môn. 
 Nhận thấy bài thơ “ Ông Đồ” của Vũ Đình Liên (Văn 8) có thể phân ra cảnh 
cụ thể theo bố cục của bài thơ. Bài thơ gợi ra cảm xúc, cảm xúc được vận động 
trên nền cảnh cơ bản mà có thể tái hiện bằng tranh. Với những lý do trình bày 
trên tôi mạnh dạn thực hiện đề tài sáng kiến kinh nghiệm: “ Cách thể hiện Thi 
trung hữu họa trong giảng dạy bài thơ Ông đồ của Vũ Đình Liên ( Chương 
trình Ngữ văn lớp 8). 
 II. MỤC TIÊU CỦA ĐỀ TÀI: 
 Nhà trường phổ thông dạy cho học sinh kiến thức về các bộ môn từ khoa học 
xã hội đến khoa học tự nhiên không ngoài mục đích phát triển toàn diện học 
sinh. Đặc biệt hiện nay với phương pháp giảng dạy mới theo hướng “tích hợp” 
(hiểu theo nghĩa rộng là tích hợp các kiến thức của bộ môn này trong việc giảng 
dạy bộ môn kia) thì thiết nghĩ có lẽ đề tài này cũng là một sự đổi mới theo 
hướng “tích hợp” chăng? Dù sao cũng là suy nghĩ của riêng cá nhân tôi nên chắc 
chắn không tránh khỏi sự phiến diện và khiếm khuyết. Rất mong các đồng 
nghiệp chỉ bảo tôi để tôi hoàn thiện hơn đề tài này theo quan điểm tích hợp của 
chương trình sách giáo khoa. 
Phan Thị Vân Anh – Trường THCS Thái Thịnh – Đống Đa – Hà Nội 3 Sáng kiến kinh nghiệm 
viên khi đặt học sinh vào tình huống có vấn đề để học sinh tự tri giác từ ngôn 
ngữ chuyển sang tri giác về hình ảnh và ngược lại. 
 Thực hiện đề tài này bản thân tôi vẫn còn nhiều trăn trở nên chỉ coi như đây 
là một ý kiến nhỏ đưa ra từ phương pháp giảng dạy của chính mình mong mọi 
người đón nhận và cho ý kiến. Tôi đã làm và rất muốn thể hiện ý tưởng nếu “Thi 
trung hữu họa” thì tại sao không thể giúp mỗi học sinh thể hiện cảm thụ của 
riêng mình, mỗi em một vẻ, phong phú, đa dạng giàu cảm xúc, tưởng tượng 
những hình ảnh khác nhau theo gợi mở và định hướng của người thầy giáo?! 
IV. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 
 Với đề tài này tôi chỉ nghiên cứu trong phạm vi tác giả, tác phẩm thơ “ Ông 
Đồ”, những nét thực tế cuộc sống mà bài thơ phản ánh có thể tái hiện lai nội 
dung của bài thơ bằng tranh vẽ và những bài phê bình xung quanh bài thơ “ Ông 
Đồ” chứ không nghiên cứu cách vẽ tranh bằng những chất liệu nào. 
V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 
- Đọc các tài liệu có liên quan và đề cập đến các vấn đề đổi mới phương pháp 
dạy học, đặc biệt là cách khai thác đồ dùng trực quan và tích hợp trong giảng 
dạy- một trong những đổi mới phát huy vai trò tích cực, chủ động của học sinh. 
- Đọc các tài liệu về thi pháp thơ, dự giờ văn của các đồng chí giáo viên ngữ 
văn, đặc biệt là cách họ sử dụng đồ dùng và khai thác tính hiệu quả của đồ dùng 
trong dạy học văn. 
 - Nghiên cứu thực trạng học sinh 
 - Phương pháp tiếp cận hệ thống thi pháp học 
 - Phương pháp thống kê, phân tích, so sánh, tổng hợp để có thể rút ra kết 
 luận tìm tòi phục vụ giảng dạy. 
Phan Thị Vân Anh – Trường THCS Thái Thịnh – Đống Đa – Hà Nội 5 Sáng kiến kinh nghiệm 
trong giảng dạy, giáo dục học sinh. Đó là điều kiện thuận lợi giúp các giáo viên 
phấn đấu hết mình với công việc được giao. 
 - Về phía tổ chuyên môn, thường xuyên tổ chức thao giảng, tổ chức những 
chuyên đề về những vấn đề bức xúc trong chuyên môn nên phần nào tổ đã giải 
quyết những vấn đề khó khăn mà trong quá trình dạy học giáo viên mắc phải. 
* Khó khăn: 
 - Khi tôi tiến hành thực hiện đề tài này là lúc chương trình dạy là sách 
giáo khoa cũ ( chưa thay sách). Tôi cũng hi vọng rằng “ Ông Đồ” là tác phẩm 
Văn được chọn dạy trong chương trình thay sách lớp 8 các năm tới. Tinh thần 
đổi mới mà linh hồn là sự đổi mới phương pháp đã được tôi vận dụng ngay 
trong chương trình chưa thay sách. Đó là một sự đón đầu có ý nghĩ thiết thực mà 
phần nào tôi đã thu được. Sau đó là chương trình thay sách giáo khoa. Và thật 
may là bài thơ “ Ông đồ” mà tôi tâm đắc vẫn được chọn giảng dạy trong chương 
trình. Sau đó bùng nổ trào lưu hiện đại và tất yếu là việc đưa công nghệ thông 
tin vào trong giảng dạy nên kênh hình được phát huy tối đa – một bước đột phá 
mới trong công tác giảng dạy nói chung và trong dạy học văn nói riêng. Tôi 
không biết đề tài và những trăn trở của tôi có đến nỗi lạc hậu lắm không nhưng 
tôi vẫn thấy mình thu được những kết quả đầy khích lệ để tôi có thể tiến hành 
tiếp ý tưởng của mình và bổ sung dần theo yêu cầu đổi mới và hiện đại. 
 Một khó khăn nữa là không phải giáo viên nào cũng biết vẽ để thể hiện ý 
tưởng của mình. Trong trường số giáo viên họa có thể giúp đỡ ở đề tài này còn 
rất khó khăn hạn chế, và đặc biệt chưa có tiếng nói đồng điệu giữa hai phạm trù 
nghệ thuật – tạo hình và nghệ thuật văn chương. 
 II. THỰC TRẠNG TÌNH HÌNH QUA KHẢO SÁT 
1. Về phía giáo viên: 
 - Tôi có dự giờ của nhiều đồng nghiệp. Hầu hết khi dạy giáo viên chỉ đưa ra 
bức tranh về cuối tiết dạy nhằm gây ấn tượng cho học sinh về một nhân vật nào 
đó hoặc cho học sinh phát biểu cảm nghĩ và chủ yếu là giáo viên tỏ ra bị khiên 
cưỡng, bắt buộc cần có đồ dùng trực quan trong giờ dạy học với ý nghĩa là “đổi 
mới” và “có sử dụng đồ dùng” Mặc dù có sự đầu tư vào tranh vẽ, song sự khai 
Phan Thị Vân Anh – Trường THCS Thái Thịnh – Đống Đa – Hà Nội 7 Sáng kiến kinh nghiệm 
 - Có khi học sinh không thấy gì vui mừng cả khi mà giáo viên đưa tranh ra 
minh họa ra vẽ giống hệt như tranh đã có sẵn trong sách giáo khoa nên có vẻ cô 
thầy ý thức “đổi mới” trong giờ học ấy thì lại hóa ra là không mới gì cả. 
3. Kết luận thực trạng 
 - Giáo viên lười đầu tư vào việc sáng tạo tranh vẽ. Một tác phẩm 1 dòng thơ 
1 câu văn đâu phải chỉ sử dụng có một cảnh mà tạo ra liên tưởng về cảnh ở 
nhiều góc độ. Vậy người giáo viên còn lười suy nghĩ sáng tạo xem nên làm tranh 
vẽ nhân vật hay cảnh ở góc độ nào là hợp lý nhất, học sinh dễ cảm nhận nhất, 
không làm mất văn thơ ở đường nét của tranh. 
 - Giáo viên thấy khó ở vấn đề là sợ rằng tạo tranh vẽ triệt đi mất ý thơ. Do 
vậy việc vẽ tranh không hề đơn giản chưa kể đến việc sử dụng tranh thế nào để 
hiệu quả phát huy được tư duy sáng tạo và cảm hứng cảm thụ tác phẩm thơ cho 
học sinh. 
 - Thứ nữa là việc đầu tư “kinh phí” cho tranh vẽ là giáo viên phải tự túc, giáo 
viên muốn tranh vẽ phải thuê họa sĩ, phải nói ý tưởng khi đặt đơn với họ. Mà 
họa sĩ họ chỉ có tài thẩm cảnh chứ đâu chắc đã có tài thẩm văn chương, do đó 
nhiều lúc đi vẽ không ưng ý, giáo viên đành thôi không dùng vì cả 2 lý do này. 
Cứ dạy theo kiểu truyền thống đỡ rắc rối. Như vậy học sinh luôn được học theo 
một kiểu dễ gây sự nhàm chán, chán nản cho học sinh. So sánh sang các môn 
học khác ta thấy các em rất háo hức với giờ thực hành sinh học, với bản đồ lịch 
sử, với bản đồ địa lý. Còn môn Văn thì sao? Chẳng thấy thầy cô dùng tranh gì 
ngoài mấy sơ đồ ngữ pháp ghi vào tờ tôki làm bảng phụ cho nhanh. Do vậy việc 
sử dụng và sáng tạo tranh minh họa là hi hữu khi phải thao giảng chẳng hạn. 
Cho nên học sinh thường “lạ” vì động tác đưa tranh rất “mới mẻ’ của thầy, gây 
nên sự xì xào bàn tán. Kể cả giáo viên hát bài thơ được phổ nhạc – việc đơn giản 
nhất cũng ít được làm nên khi lần đầu tôi hát, tôi còn thấy học sinh ở dưới “cô, 
cô giáo hát hay quá” có khi giáo viên trở nên lúng túng vì xấu hổ. Nếu những 
cách này được sử dụng không phải thường xuyên nhưng cũng vài ba lần thì học 
sinh thoải mái không thấy lạ lẫm. 
Phan Thị Vân Anh – Trường THCS Thái Thịnh – Đống Đa – Hà Nội 9 Sáng kiến kinh nghiệm 
 B. BIỆN PHÁP THỰC HIỆN 
I. SỐ LƯỢNG, YÊU CẦU CỦA TRANH VẼ: 
 Dễ thấy bài thơ “Ông Đồ” của Vũ Đình Liên chia làm 5 khổ. Nhà thơ đã dự 
cảm bước đi im lìm mà quyết liệt của thời gian. Hai đoạn thơ đầu (khổ 1 +2) 
tươi vui nhảy nhót với cái nền hoa đào nở của ngày tết, của mùa xuân với giấy 
đỏ, mực đen, với người qua lại tấp nập. Ba đoạn cuối (khổ 3,4,5) miêu tả những 
biến động của thời gian: Ông đồ vẫn ngồi đó, người thuê viết không còn (khổ 3) 
ông đồ ngồi đây không người nào biết (khổ 4) ông đồ không còn ở đây nữa (khổ 
5) Riêng khổ 5 thể hiện rõ nhất, xúc động nhất tấm lòng nhà thơ. Do vậy tôi 
thấy ông đồ là biểu tượng của một thời gian cụ thể, xóa dần, xóa dần rồi mất 
hẳn. Sự ra đi của ông đồ, với nhà thơ có ý nghĩa sự ra đi của một thời xưa đẹp, 
một nền văn hóa đang đô thị hóa. Ở một phương diện nào đó thật dữ dằn và tàn 
nhẫn. Điều này được nhà thơ biểu đạt bằng ngôn từ thoạt đầu đầy âm thanh màu 
sắc tươi vui dần dần xa vắng nhạt nhòa mênh mông. Tôi quyết định vẽ 3 bức 
tranh tương ứng 
 1. Số lượng 5 tranh 
Tranh 1:Tương ứng với 2 khổ thơ đầu: 
 Mỗi năm hoa đào nở 
 Lại thấy ông đồ già 
 Bày mực tàu giấy đỏ 
 Bên phố đông người qua. 
 Bao nhiêu người thuê viết 
 Tấm tắc ngợi khen tài 
 Hoa tay thảo những nét 
 Như phượng múa rồng bay. 
Tranh 2: Tương ứng với 2 khổ tiếp theo: 
 Nhưng mỗi năm mỗi vắng 
 Người thuê viết nay đâu 
 Giấy đỏ buồn không thắm 
Phan Thị Vân Anh – Trường THCS Thái Thịnh – Đống Đa – Hà Nội 11 

File đính kèm:

  • pdfskkn_cach_the_hien_thi_trung_huu_hoa_trong_giang_day_bai_tho.pdf