Sáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề cần lưu ý khi giảng dạy văn Trung đại bậc THCS

doc 14 trang sklop8 09/07/2024 420
Bạn đang xem tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề cần lưu ý khi giảng dạy văn Trung đại bậc THCS", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.

Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề cần lưu ý khi giảng dạy văn Trung đại bậc THCS

Sáng kiến kinh nghiệm Một số vấn đề cần lưu ý khi giảng dạy văn Trung đại bậc THCS
 1. PHẦN MỞ ĐẦU
 1.1. Lý do chọn đề tài
 Trong dạy học văn nói chung và dạy văn học Trung đại nói riêng trước 
tiên phải xuất phát từ ý tưởng: Làm thế nào để dạy – học văn thêm hứng thú? 
Làm thế nào để học sinh tiếp cận tác phẩm một cách chủ động, hiệu quả? Làm 
sao để đến với các tác phẩm Trung đại một cách tự nhiên, gần gũi? Làm thế nào 
để học sinh có thể vận dụng mọi hiểu biết của mình để giải quyết một vấn đề 
khoa học và có hiệu quả tốt nhất?
 Nhìn chung phần văn học Trung đại là một giai đoạn lớn của lịch sử văn 
học Việt Nam. Nó bao gồm tất cả các sáng tác văn chương của đông đảo các tác 
giả trong phạm vi mười thế kỉ của chế độ phong kiến nước ta. Do hoàn cảnh xã 
hội chi phối , phần văn học này mang những đặc điểm riêng biệt về tính chất, thi 
pháp và cả ảnh hưởng bởi thi pháp của văn học cổ đại Trung Quốc. Do vậy, 
phần văn học này khá đa dạng, phong phú và có sức hấp dẫn lớn đối với giáo 
viên và học sinh.
 Ở môn Ngữ văn nói chung, phần văn thơ Trung đại nói riêng rất phong 
phú, đa dạng và sâu sắc nhưng việc truyền tải của giáo viên và sự nắm bắt của 
học sinh thường chưa đạt như mong muốn. Làm thế nào để nâng cao hiệu quả 
của một tiết Ngữ văn thuộc văn thơ Trung đại là điều mà giáo viên chúng ta luôn 
quan tâm suy nghĩ, đây là bộ phận quan trọng của nền văn học dân tộc, gồm 
những tác phẩm xuất sắc của các nhà văn, nhà thơ lớn gắn liền với lịch sử của 
dân tộc qua nhiều thế kỉ và hôm nay vẫn còn nguyên giá trị. Từ những suy nghĩ 
đó, chúng tôi đã tìm tòi và mạnh dạn thực hiện đề tài: "Một số vấn đề cần lưu ý 
khi giảng dạy văn Trung đại bậc THCS"
 1.2. Điểm mới của đề tài 
 Những tác phẩm Trung đại không gần gũi với học sinh vì do khoảng cách 
xa về không gian và thời gian nên quá trình giảng dạy giáo viên cần vận dụng 
kiến thức và tài liệu tham khảo để làm sống lại không gian, thời gian của tác 
phẩm để học sinh cảm nhận. Trong quá trình giảng dạy giáo viên cũng cần sưu 
 1 2. PHẦN NỘI DUNG
2.1. Thực trạng về việc dạy và học văn học Trung đại của học sinh trung 
học cơ sở 
* Về mặt thuận lợi: 
 Phòng Giáo dục và Đào tạo, cấp ủy chính quyền địa phương và nhà 
trường luôn quan tâm, tạo mọi điều kiện để gúp đỡ giáo viên và học sinh trong 
quá trình dạy và học.
 Quê hương Lệ Thủy có truyền thống anh hùng quật khởi trong các cuộc 
đấu tranh dựng nước và giữ nước cũng như trong thời bình, điều đó đã bồi đắp 
thêm lòng tự hào của học sinh đối với thế hệ cha ông đi trước.
 Trong nhiều năm qua, trường tôi đã có nhiều đổi mới trong dạy và học, 
đa số các em học sinh có ý thức học tập tốt. 
 Giáo viên tâm huyết với nghề, tận tụy với công việc giảng dạy, chăm lo, 
quan tâm đến học sinh. 
 * Về mặt khó khăn:
 Trước hết là khó khăn về khoảng cách rất lớn giữa các thế hệ, tác phẩm 
văn học Trung đại dù có là những áng văn thơ xuất sắc, đối với học sinh cũng 
vẫn là những tiếng nói và cách nói rất xa lạ. Đó là cách nói, tiếng nói của những 
người từng sống cách xa chúng ta hàng trăm năm, có cách nghĩ, cách cảm, cách 
sinh hoạt, quan điểm thẩm mĩ, cách trình bày, diễn đạt khác hẳn chúng ta.
 Khó khăn thứ hai mà học sinh gặp phải khi tiếp cận với tác phẩm Trung 
đại đó là hàng rào ngôn ngữ. Ngôn ngữ trong các tác phẩm thuộc dòng văn học 
này có nhiều hình ảnh ước lệ, tượng trưng, cách dùng điển cố, từ ngữ Hán Việt, 
thuật ngữ xưa, từ cổđi vào từng tác phẩm cụ thể thì ngôn ngữ của văn thơ 
chính luận lại có những đặc điểm riêng mà học sinh khó có thể hiểu và cảm 
nhận.
 Về thời gian qui định cho mỗi tác phẩm quá ít nên học sinh không đủ thời 
gian để đọc, tìm hiểu, giáo viên truyền đạt chưa sâu những kiến thức trọng tâm 
của các tác phẩm hay và khó.
 3 Hai là những tác phẩm xuất sắc phản ảnh cuộc sống xã hội và số phận con 
người hoặc phản ánh các biến cố xã hội và lịch sử trong thời kì suy vong từng 
bước của chế độ phong kiến mà tiêu biểu là: “Chuyện người con gái Nam 
Xương” trích “Truyền kì mạn lục” của Nguyễn Dữ, “Hoàng Lê nhất thống chí” 
của Ngô Gia Văn Phái, “Truyện Kiều” của Nguyễn Du, “Bánh trôi nước” của 
Hồ Xuân Hương, Truyện “Lục Vân Tiên” của Nguyễn Đình Chiểu
 2.2.2.Giải pháp 2: Cho học sinh hiểu rõ hoàn cảnh lịch sử đặc biệt 
ảnh hưởng đến văn học Trung đại
 Văn học Trung đại hình thành và phát triển trong một hoàn cảnh lịch sử 
xã hội khác hẳn chúng ta ngày nay, vì vậy muốn phân tích, đánh giá đúng đắn 
phải đặt văn bản vào điều kiện lịch sử của nó, phải nhận rõ quan hệ giữa văn bản 
với thời đại mới có thể hiểu được giá trị của văn bản và tìm thấy trong đó những 
bài học cho ngày nay. Quá khứ với cách nhìn đúng đắn của thời đại, chúng ta sẽ 
được sáng tỏ hơn.
 Muốn làm được điều đó, giáo viên cần phải tìm hiểu những tài liệu cần thiết 
có liên quan đến văn bản mình dạy để nắm vững một cách chặt chẽ, thấu đáo 
lượng kiến thức cần truyền đạt cho học sinh.
 Ví dụ: Khi dạy bài “Hịch tướng sĩ”của Trần Quốc Tuấn giáo viên phải 
giúp học sinh cùng biết hoàn cảnh ra đời của bài hịch: Vào năm 1282, được tin 
nhà Nguyên đang điều quân mượn kế đánh Cham Pa để xâm lược nước ta, nhà 
Trần liền triệu tập Hội nghị Bình Than, Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn được 
phong làm Quốc công tiết chế thống lĩnh toàn bộ quân đội. Trong thời gian này, 
ông viết “Binh thư yếu lược” và “Hịch tướng sĩ” để động viên, cổ vũ tướng lĩnh 
và quân sĩ chuẩn bị kháng chiến.
 Hay khi dạy đoạn trích “Nước Đại Việt ta” sau khi cung cấp cho học sinh 
kiến thức về hoàn cảnh ra đời của “Bình Ngô đại cáo”, giáo viên cung cấp cho 
học sinh kiến thức lịch sử về tên nước Đại việt:
 Năm 968 Đinh Tiên Hoàng lên ngôi hoàng đế đặt quốc hiệu là Đại Cồ 
Việt đóng đô ở Hoa Lư (Ninh Bình). Năm 1010 Lí Thái Tổ lên ngôi đổi tên 
nước là Đại Việt và dời đô về Thăng Long (Hà Nội). Năm 1400 Hồ Quý Ly ép 
 5 vầng trăng mà còn giúp các em hiểu Thúy Vân đang ở vào độ tuổi trăng tròn, 
lứa tuổi đẹp nhất của mỗi đời người. Hay từ “hoa” trong “hoa cười” cách nói ẩn 
dụ gợi vẻ đẹp xinh tươi, rạng ngời như hoa mới nở của Thúy Vân (so sánh Thúy 
Vân với hoa đẹp thắm tươi) ẩn sâu bên trong là thái độ ngưỡng mộ trân trọng 
của nhà thơ trước vẻ đẹp mà tạo hóa đã ban cho người thiếu nữ.
 Hay câu: “Một hai nghiêng nước nghiêng thành” nếu học sinh không 
được giảng, được hiểu thì làm sao biết được vẻ đẹp của Thúy Kiều. Cho nên 
giáo viên phải làm rõ: “Nghiêng nước nghiêng thành” là lấy ý ở một câu chữ 
Hán có nghĩa là ngoảnh lại nhìn một cái thì người ta bị xiêu, ngoảnh nhìn cái 
nữa thì nước người ta bị nghiêng ngã. Ý nói vẻ đẹp tuyệt vời của Thúy Kiều có 
thể làm cho người ta say mê đến nỗi mất thành, mất nước.
2.2.4. Giải pháp 4: Cần phải dựa theo đặc điểm của thể loại mà chọn cách 
dạy thích hợp
* Đối với văn chính luận
 Văn chính luận được đưa vào giảng dạy bậc THCS gồm hai thể loại cơ 
bản đó là Hịch và Cáo. Cả hai được viết ra do yêu cầu của cuộc chiến đấu chống 
ngoại xâm và thành những tác phẩm bất hủ. Mỗi thể loại có đặc trưng khác nhau 
cho nên muốn cho học sinh cảm thụ tốt giáo viên cần chú ý đến đặc trưng thể 
loại.
 + Hịch: Thuộc loại văn hiệu triệu, kêu gọi. Hịch thường xuất hiện trước 
cuộc kháng chiến có tác dụng gây uy thanh trước khi ra quân. Muốn dạy tốt bài 
hịch giáo viên cần xác định đối tượng mà bài hịch hướng tới. Mục đích mà bài 
hịch muốn hướng tới là gì? Để đạt được mục đích đó, tác giả lập luận như thế 
nào, giọng điệu ra sao?
 Ví dụ: Bài “Hich tướng sĩ” đối tượng là những tùy tướng dưới quyền, thể 
hiện ở cách xưng hô: “ta, các ngươi” một điều cần lưu ý khi giảng dạy bài Hịch 
cần cho học sinh xác định thời điểm ra đời của bài Hịch, chú ý đến nghệ thuật 
hùng biện, nghệ thuật này thể hiện ở nội dung và cảm xúc của bài văn (bố cục). 
Dạy Hịch giáo viên cần coi trọng khâu đọc. Hịch là lời truyền lệnh của chủ 
tướng cho tướng sĩ dưới quyền nên đọc bài hịch phải hùng hồn, giọng ngân 
 7 + Đọc: Giáo viên phải đọc và hướng dẫn học sinh đọc cho đúng với tính 
chất cân đối, nhịp nhàng , cách ngắt nghỉ, giọng điệu thể hiện tính cách, tâm 
trạng nhân vật.
 + Hướng dẫn học sinh nắm vững cốt truyện. Đặc biệt đối với những tác 
phẩm lớn như: Truyện Kiều của Nguyễn Du, Truyện Lục Vân Tiên của Nguyễn 
Đình Chiểu học sinh nắm được cốt truyện thì sẽ dễ dàng hơn khi tìm hiểu các 
đoạn trích.
 + Hướng dẫn phân tích nhân vật: Phải từ các chi tiết mà làm sáng tỏ tính 
cách nhân vật. Nhưng phải đặt nhân vật trong hoàn cảnh lịch sử mà phân tích, 
đánh giá
 Ví dụ: Dạy “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ , khi 
phân tích chi tiết Vũ Nương phải tự vẫn để minh oan cho mình. Giáo viên hỏi 
học sinh: Theo em cái chết của Vũ Nương là tất yếu hay dại dột? GV cần nhắc 
học sinh về hoàn cảnh lịch sử mà Vũ Nương sống là xã hội phong kiến, một xã 
hội đầy bất công với người phụ nữ thì các em mới cho rằng cái chết của Vũ 
Nương là tất yếu và các em cũng sẽ hiểu được ý nghĩa tố cáo xã hội phong kiến 
mà tác giả muốn thể hiện trong chi tiết này.
 + Phân tích ngôn ngữ: Các biện pháp diễn đạt ước lệ, tượng trưng, điển 
cốphải được giảng giải để giúp học sinh hiểu ý nghĩa của đoạn văn, đoạn thơ.
2.2.5. Giải pháp 5: Làm rõ nội dung văn học Trung đại phần lớn chịu ảnh 
hưởng của Hán học
 Văn học Trung đại chịu ảnh hưởng của Hán học nên thường có nhiều từ 
Hán Việt, từ cổ, thuật ngữ, khái niệm xưa. Những từ ngữ này đối với chúng ta 
thời nay rất khó hiểu nhưng với người xưa là ngôn ngữ phổ biến. Vì dưới chế độ 
phong kiến địa vị Hán học được đề cao nên khi sáng tác người xưa thường dùng 
từ Hán Việt. Do đó để cho học sinh cảm thụ được tác phẩm văn học xưa, việc 
làm quan trọng của giáo viên là giảng từ. Học sinh hiểu từ, thông câu trước mới 
có cơ sở cảm thụ tác phẩm. Cách dạy từ trong thơ xưa tùy theo loại từ ngữ. 
Riêng đối với từ Hán Việt cách tốt nhất là tách ra từng tiếng mà giải thích rồi 
 9 2.2.7. Giải pháp 7: Trong giờ dạy văn cần truyền ngọn lửa tình cảm và tâm 
hồn người dạy
 Một yếu tố không kém phần quan trọng có tác động tạo sự hấp dẫn, sôi 
nổi và hứng thú trong giờ dạy văn là ngọn lửa tình cảm và tâm hồn của người 
giáo viên dạy văn. Nếu thiếu trái tim nồng nàn, thiếu sự rung cảm sâu sắc trước 
niềm vui cũng như nỗi buồn, nỗi đau khổ của con người, của dân tộc, của đất 
nước, chắc hẳn người giáo viên không làm sao có thể khơi dậy được trong lòng 
học sinh những rung động, những tình cảm lớn lao từ trang sách, bài văn, bài 
thơ.
2.2.8. Giải pháp 8: Hướng dẫn học sinh đọc thêm tư liệu, có biện pháp cụ 
thể
 Đối với học sinh, để học tốt một tiết văn học Trung đại, giáo viên cần 
hướng dẫn đọc thêm tài liệu, đọc phần chú thích cuối mỗi tác phẩm.
 Hướng dẫn các em ghi chép vào “sổ tay văn học” và có kiểm tra thường 
xuyên để học sinh tích lũy kiến thức cần thiết phục vụ bài học.
 Sau mỗi bài học giáo viên có thể cho các em dạng bài tập để kiểm tra kiến 
thức và vận dụng kiến thức đã học.
 Giáo viên cũng cần tạo ra những tình huống có vấn đề trong giảng dạy 
bằng cách đặt những câu hỏi khơi dậy sự ham hiểu biết, thích tìm tòi, suy luận 
của học sinh.
 Ví dụ: Dạy “Chuyện người con gái Nam Xương” của Nguyễn Dữ giáo 
viên có thể cho học sinh thảo luận nhóm:
 H: Nếu em là Vũ Nương khi bị chồng nghi oan như vậy em sẽ làm gì?
 H: Nếu em là Trương Sinh sau một thời gian dài vắng nhà, nghe con nói có 
người đàn ông thường đến nhà vào ban đêm em sẽ làm gì?
Học sinh nêu ý kiến, tranh luận, từ đó giáo viên giúp học sinh hiểu hoàn cảnh xã 
hội ảnh hưởng đến tính cách, hành động của nhân vật trong tác phẩm.
2.3. Kết quả và bài học kinh nghiệm
 2.3.1. Kết quả định lượng: 
 11

File đính kèm:

  • docsang_kien_kinh_nghiem_mot_so_van_de_can_luu_y_khi_giang_day.doc