Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp dạy Chuyên đề nghị luận xã hội trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân
Bạn đang xem 20 trang mẫu của tài liệu "Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp dạy Chuyên đề nghị luận xã hội trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân", để tải tài liệu gốc về máy hãy click vào nút Download ở trên.
Tóm tắt nội dung tài liệu: Sáng kiến kinh nghiệm Giải pháp dạy Chuyên đề nghị luận xã hội trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân
CỘNG HÒA XÃ HỘI CHỦ NGHĨA VIỆT NAM Độc lập - Tự do - Hạnh phúc THUYẾT MINH MÔ TẢ GIẢI PHÁP VÀ KẾT QUẢ THỰC HIỆN SÁNG KIẾN 1. Tên sáng kiến: Giải pháp dạy chuyên đề nghị luận xã hội trong công tác bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân. 2. Ngày sáng kiến được áp dụng lần đầu: Năm học: 2020 - 2021; 2021 – 2022. 3. Các thông tin bảo mật: Không 4. Các giải pháp cũ thường làm. 4.1 Thực trạng. Bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân (GDCD) có nhiều chuyên đề trong đó phải kể đến nội dung chuyên đề về dạng bài nghị luận xã hội. Đây là chuyên đề không mới nhưng chất lượng bài làm của học sinh không đạt được kết quả như mọng đợi khi rèn kĩ năng cho học sinh làm dạng bài này đảm bảo yêu cầu. Môn GDCD không những trang bị cho học sinh những kiến thức nền tảng, cơ bản, phù hợp với lứa tuổi về các giá trị đạo đức, pháp luật; lối sống mà còn hình thành và phát triển ở các em những tình cảm, niền tin, những hành vi và thói quen phù hợp với những giá trị đạo đức đã học. Môn học này giúp cho học sinh có sự thống nhất cao, nhận thức đúng giữa ý thức và hành vi. Có thể nói môn GDCD nhằm giáo dục cả kiến thức, kĩ năng và thái độ cho học sinh và còn là môn giữ vai trò chủ chốt trong việc giáo dục cho học sinh ý thức và hành vi của công dân, góp phần hình thành và phát triển ở các em những phẩm chất và năng lực cần thiết của công dân trong một xã hội dân chủ, công bằng, văn minh. Việc giáo dục ấy được xem xét, đánh giá qua việc bày tỏ suy nghĩ, những quan điểm cá nhân dưới dạng bài nghị luận xã hội. 4.2 Hạn chế của phương pháp cũ. - Đa số giáo viên trong quá trình giảng dạy chỉ hướng dẫn các em học sinh học thuộc kiến thức trong sách giáo khoa, sưu tầm đề trên mạng hoặc đề thi từ những 1 giải chưa được cải thiện trong đó có bộ môn Giáo dục công dân. Với những thành tích đã đạt được của bộ môn chưa xứng đáng với sự quan tâm của các cấp chính quyền, ban ngành lãnh đạo, cơ quan tổ chức và đáp ứng được sự kì vọng của nhân dân. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên bởi nhiều yếu tố: - Khách quan: + Trong thực tế đội ngũ giáo viên có trình độ đáp ứng được với yêu cầu bồi dưỡng học sinh giỏi chưa nhiều. Giáo viên tham gia công tác tham gia bồi dưỡng, nâng cao chất lượng mũi nhọn còn mỏng, chưa nhiệt tình với nhiệm vụ này. + Giáo viên tham gia bồi dưỡng học sinh giỏi môn Giáo dục công dân là kiêm nhiệm, chưa được đào tạo chính ban. + Bộ môn GDCD là môn học bị coi là môn phụ nên trong thực tế chưa có nhiều tài liệu nâng cao để phục vụ cho việc ôn thi học sinh giỏi. + Học sinh tham gia vào đội tuyển của môn Giáo dục công dân chưa phải là những học sinh có tổ chất tốt, chưa say mê với môn học. - Chủ quan: + Là một giáo viên được phân công giảng dạy và gia bồi dưỡng đội tuyển học sinh giỏi môn Giáo dục công dân 9 cấp tỉnh của trường THCS Hoàng Hoa Thám, tôi tự nhận thấy bản thân còn lúng túng, chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc thực hiện nhiệm vụ này. + Bản thân chưa tâm huyết với công tác giáo dục mũi nhọn nên cũng chưa có những phương pháp linh hoạt, tích cực để thu hút các em yêu thích, gắn bó với môn học. + Chưa có kinh nghiệm và trình độ còn hạn chế nên thường lên mạng sao chép các đề bài, tài liệu mà không kiểm soát được phạm vi kiến thức dẫn đến khi truyền đạt kiến thức đến học sinh nắm không chắc. Nhất là dạng bài nghị luận, bày tỏ quan điểm về các vấn đề thời sự xã hội nóng đang diễn ra. + Khi dạy chuyên đề nghị luận xã hội của bộ môn GDCD bị nhầm lẫn sang trình bày nội dung giống với môn Văn, nặng về phân tích ngôn từ trong khi bản chất bộ môn GDCD là phân tích nhận xét hành vi, việc làm và đánh giá giá trị đạo đức. Từ đó trong quá trình ôn luyện, nội dung hướng dẫn học sinh làm bài còn sơ sài, viết lan man, chưa trọng tâm, chưa đúng với yêu cầu của đề bài. 3 Vậy kiểu bài nghị luận trong ôn thi HSG môn GDCD là kiểu bài nhằm xác lập cho người nghe người đọc những quan điểm, tư tưởng thông qua đánh giá hành vi việc làm và các giá trị đạo đức của các sự việc, hiện tượng, vấn đề xã hội nhằm giáo dục ý thức đạo đức góp phần hình thành nhân cách của mỗi cá nhân. Bố cục của bài văn nghị luận gồm 3 phần: - Mở bài (đặt vấn đề): Nêu vấn đề thời sự đang diễn ra có ý nghĩa, ảnh hưởng đối với đời sống xã hội (luận điểm xuất phát, tổng quát). - Thân bài (giải quyết vấn đề): Trình bày những quan điểm, suy nghĩ, nội dung chủ yếu của bài (có thể có nhiều đoạn nhỏ, mỗi đoạn là một luận điểm, trong một luận điểm có các lí lẽ và dẫn chứng) - Kết bài (kết thúc vấn đề): Nêu kết luận nhằm khẳng định tư tưởng, thái độ, quan điểm của bài. Căn cứ vào thao tác khi làm bài và nội dung của vấn đề nghị luận xã hội chia thành 2 dạng bài: - Dạng 1: Dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống. - Dạng 2: Dạng bài nghị luận về tư tưởng, đạo lí. b. Giải pháp chi tiết về dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống. Dạng bài nghị luận xã hội về một sự việc hiện tượng yêu cầu người nghe bày tỏ quan điểm đánh giá, nhận xét về những sự việc, hiện tượng đang diễn ra trong cuộc sống hàng ngày mang tính thời sự, cấp bách có ảnh hưởng trực tiếp đến hành vi việc làm của con người. VD Ô nhiễm môi trường, An toàn giao thông, hút thuốc lá điện tử trong học sinh, bạo lực học đường, căn bệnh trầm cảm của giới trẻ. Nghị luận về một sự việc, hiện tượng nội dung có thể là những tấm gương, việc làm tốt để ta noi theo nhưng cũng có thể là hành động việc làm đáng phê phán lên án. Dạng bài nghị luận về một sự việc, hiện tượng trong đời sống thường có các yêu cầu: Suy nghĩ của em, quan điểm của em, những hiểu biết của em về tác hại. Đề bài của bài nghị luận về một sự việc hiện tượng có hai loại gồm: - Đề hiện: Là loại đề được xác định rõ mọi yêu cầu trong đề bài. + VD Tình huống: Theo lời khuyên của bố mẹ, nữ sinh H (đủ 15 tuổi) chủ động chia tay người yêu là K (đủ 18 tuổi) để tập trung vào việc học. K không đồng ý, tìm mọi cách níu kéo nhưng không được. Để trả thù, K đã bịa đặt những thông 5 1. Mở bài. - Giới thiệu sự việc, hiện tượng đời sống cần nghị luận: Sự việc hiện tượng đó có ảnh hưởng tốt hay xấu với con người - xã hội, cần phát huy hay ngăn chặn, giải quyết. 2. Thân bài. Luận điểm 1: Giải thích, trình bày khái niệm. - Tìm và giải thích nghĩa của các từ được coi là từ khóa mà đề bài đưa ra. Tuy nhiên không phải sự việc nào cũng cần giải thích vì có những khái niệm phổ biến mà ai cũng biết như tai nạn giao thông, nói tục chửi thề... Luận điểm 2: Thực trạng, biểu hiện cụ thể sự việc hiện tượng đó đang diễn ra như thế nào? - Dựa vào thực tế đời sống để trả lời các câu hỏi: sự việc, hiện tượng này xuất hiện ở đâu? Xuất hiện vào thời gian nào? Diễn ra ở quy mô nào? Đối tượng của sự việc hiện tượng là ai? Mức độ ảnh hưởng ra sao...Dẫn chứng cụ thể, có thể đưa các con số? Luận điểm 3: Sự việc hiện tượng đó xảy ra để lại hậu quả, tác hại, ảnh hưởng cụ thể như thế nào? Lập luận theo hướng sự việc, hiện tượng đó xảy ra để lại hậu quả, tác hại với: + Với bản thân cá nhân của người đang thực hiện hành vi việc làm được nói đến. + Với gia đình + Với xã hội Luận điểm 4: Nguyên nhân, lí do nào dẫn đến sự việc hiện tượng đó. Lập luận theo hai hướng: - Nguyên nhân chủ quan: do nhận thức, ý thức, thói quen của bản thân con người... - Nguyên nhân khách quan: tác động từ bên ngoài như môi trường sống, do điều kiện gia đình, do bạn bè rủ rê lôi kéo, quy định của hệ thống pháp luật nhà nước, xã hội... Luận điểm 5: Giải pháp đưa ra để khắc phục, hạn chế sự việc, hiện tượng trên. - Dựa vào phần đánh giá hậu quả, kết quả để đưa ra giải pháp cụ thể, phù hợp. Đối với hậu quả thì đưa ra giải pháp mạnh mẽ để ngăn chặn; nếu là kết quả thì phải khuyến khích, cổ vũ, khích lệ và phát triển. 7 người dân trong việc chấp hành các quy định phòng dịch, đồng lòng đánh đuổi giặc Covid. - Tồn tại: Bên cạnh đó còn có một bộ phận nhân dân thiếu ý thức tự giác, vô trách nhiệm gây khó khăn cho công tác khoanh vùng dập dịch cũng như khống chế sự lây lan của dịch bệnhcụ thể: + Vô trách nhiệm khi đi từ vùng tâm dịch trở về không tự giác kê khai y tế, khai báo không trung thực, không thực hiện nghiêm việc cách ly y tế. + Nghiêm trọng hơn, một số người còn tìm cách đưa người nhập cảnh trái phép để thu lợi bất chính. + Tìm mọi cách ra khỏi vùng dịch. + Vi phạm các quy định phòng dịch khi thực hiện cách ly tập trung, + Cố tình chống đối các biện pháp thực hiện cách li xã hội. + Lợi dụng dịch bệnh xảy ra có những hành động việc làm vô nhân đạo đi ngược lại tinh thần tương thân tương ái trong mùa dịch + Tung tin giả về người mắc Covid gây hoang mang cho dư luận. * LĐ 3. Thói vô trách nhiệm đó để lại hậu quả như thế nào. - Với cá nhân: + Sự thờ ơ vô trách nhiệm của các cá nhân làm cho dịch lây lan, bùng phát trên diện rộng. + Sự vô trách nhiệm, không tuân thủ các biện pháp phòng dịch của ban chỉ đạo phòng chống dịch là hành vi vi phạm pháp luật. - Với gia đình: Tốn kém về kinh tế, do bị cách li tập chung nên phải tạm dừng công việc sẽ ảnh hưởng đến kinh tế gia đình. - Với xã hội: + Nếu các cá nhân không có trách nhiệm khó khăn, vất vả cho toàn bộ ban phòng chống dịch. + Khi dịch lây lan bùng phát trên diện rộng sẽ làm cho ngành y tế quá tải, thiệt hại kinh tế + Khi dịch chưa được kiểm soát sẽ gây tâm lí hoang mang lo lắng, hoảng loạn của người dân trước tình hình dịch bệnh diễn biến phức tạp. 9 => Liên hệ bản thân em làm gì để thể hiện trách nhiệm trong công tác phòng dịch? 3. Kết bài. Mỗi một công dân biết tự giác, trách nhiệm bảo vệ mình.Chúng ta cần nêu cao ý thức trách nhiệm trong phòng dịch bằng hành động việc làm của mỗi cá nhân. * Lưu ý: Tuy nhiên trong thực tế không phải lúc nào khi đưa ra vấn đề nghị luận thì yêu cầu làm bài cũng phải đầy đủ cấu trúc các phần theo hệ thống luận điểm nói trên. Điều này còn phụ thuộc vào phạm vi câu hỏi, thang điểm, vấn đề đưa ra nghị luận thì học sinh phải vận dụng được đơn vị kiến thức cần trình bày. VD Tình huống: Các bạn K, G và H là học sinh lớp 9 (15 tuổi) trường THCS xã Q. Do mâu thuẫn cá nhân nên sau giờ tan học, H vừa đi xe đạp điện ra khỏi cổng trường thì bị K, G chặn lại. G dùng mũ bảo hiểm đánh liên tiếp vào đầu H, cùng lúc đó, K đã dùng hung khí giấu trong người tấn công làm H tử vong ngay tại chỗ. Vụ án xảy ra đã gây xôn xao dư luận địa phương.Tình huống trên phản ánh vấn đề bạo lực học đường hiện nay. Em hãy đề xuất biện pháp phòng tránh vấn đề này. => Đây là dạng câu hỏi đã xác định rõ vấn đề nghị luận nhưng học sinh cần đọc kĩ yêu cầu của câu hỏi. Trong phạm vi câu hỏi chỉ yêu cầu đề xuất biện pháp phòng tránh thì học sinh chỉ cần giải thích ngắn gọi hiện tượng đó. Sau đó chỉ ra thực trạng và nguyên nhân (3-5 câu) ngắn gọn, nội dung đó được xem là cơ sở có tính chất kết nối, liên kết để trình bày giải pháp vì đây là luận điểm tập chung điểm cao nhất. Với câu hỏi dạng này cần trình bày như sau: Giới thiệu vấn đề: Ngày nay vấn đề bạo lực học đường đang là nội dung mà các nhà trường và phụ huynh học sinh lo ngại. Vấn đề này xảy ra xuất phát từ nhiều nguyên nhân chủ quan và khách quan. Từ đó đặt ra giải pháp: * Giải thích: Bạo lực học đường là những hành vi thô bạo, ngang ngược, bất chấp công lý, đạo lý, xúc phạm trấn áp người khác gây nên những tổn thương và tinh thần và thể xác diễn ra trong phạm vi trường học. Đề xuất biện pháp: * Về phía về nhà nước: Ngăn chặn và xử phạt nặng những cá nhân, tổ chức có hành vi vi phạm pháp luật *Về phía nhà trường: 11
File đính kèm:
- sang_kien_kinh_nghiem_giai_phap_day_chuyen_de_nghi_luan_xa_h.docx